CUỘC TẤN CÔNG ĐỢT HAI: NGÀY 5 THÁNG 5/1968
Sau thất bại của cuộc tổng tấn công đợt
một vào dịp Tết Mậu Thân, Việt Cộng đã mở trận tấn công ngày 17 tháng 2/1968
nhằm hỗ trợ tinh thần cho chiến trường Huế còn dang sôi động lúc bấy giờ. Cuộc
tấn công được chú trọng vào thủ đô Saigon, nhưng các lực lượng Việt Cộng chỉ
đến vùng ven đô đã bị đánh tan không xâm nhập được vào trong thành phố. Tối
ngày 5 tháng 3/1968, Việt Cộng đồng loạt mở một cuộc tấn công khác phần lớn
bằng pháo kích trên khắp nơi. Cuộc tấn công này ngắn ngủi và yếu ớt, dường nhi
chỉ nhằm gây tiếng vang. Từ ngày đó đến ngày mở cuộc tổng tấn công đợt 2, Việt
Cộng chỉ hoạt động theo mức độ thường lệ.
Chánh quyền Miền Nam tỏ ra thận trọng
và tăng gia các biện pháp bố phòng. Lệnh giới nghiêm được ban hành trên toàn
cõi Miền Nam tức khắc ngay sau biến động xảy ra. Ngày 28 tháng 2/1968, thủ
tướng chính phủ ký sắc lệnh đình chỉ việc giải ngũ mọi loại quân nhân, gọi tái
ngũ mọi loại quân nhân khác trở lại quân đội.
Từ đầu tháng Ba dương lịch, tất cả các
nam giáo sư, sinh viên từ 18 đến 45 tuổi đều phải tham gia huấn luyện quân sự.
Sau 2 tuần lễ huấn luyện quân sự, sinh viên phải mặc đồng phục kaki vàng và
ghép thành hàng ngũ. Tại nhiều tỉnh lỵ, các đoàn phòng vệ dân sự được tự động
tổ chức theo sang kiến của các tỉnh trưởng. Các công chức phải tham gia phong
trào. Phong trào này sau được đổi danh thành phong trào Nhân Dân Tự Vệ.
Các đoàn thể chính trị cùng hoạt động.
Ngày 10 tháng 3/1968, Mặt Trận Nhân Dân Cứu Nguy Dân Tộc ra đời và bầu được ban
chấp hành trung ương do Thượng Nghị Sĩ Trần Văn Đôn làm chủ tịch. Về phương
diện xã hội, để cứu trợ các nạn nhân thời cuộc, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu
trong một thông điệp ban bố ngày 28 tháng 2/1968 đã quyết định mở một cuộc lạc
quyên trên toàn quốc trong vòng một tháng. Mỗi một quân nhân sĩ quan và công
chức phải góp vào cuộc lạc quyên này một ngày lương toàn vẹn. Ủy ban Cứu trợ
Trung ương được giao trách nhiệm cho Phó Tổng Thống Nguyễn Cao Kỳ.
Sau ngày biến động, bộ mặt bình thương
của Miền Nam đã thành một bộ mặt chiến tranh phấn khởi. Một điều ghi nhận là
dân chúng và binh sĩ lại có vẻ tin tưởng ở sức mạnh của mình khi họ mục kích
trước mắt các đơn vị Việt Cộng bị thua, bỏ chạy và Việt Cộng bị chết rất nhiều.
Sự phấn khởi của nhân dân được bộc lộ
ra nhất là đối với giới thanh niên trước đây trốn tránh quân dịch trở ra trình
diện đầu quân vui vẻ. Do đó, trong vòng hơn một tháng, các đơn vị Quân Lực VNCH
bị tổn thất trong biến động đầu Xuân đã bổ sung được đầy đủ quân số. Nhiều đơn
vị còn có quân số trội hơn trước. Thành phần quân số bổ sung sau dịp Tết gồm
những người tái ngũ, những người mới đầu quân và những quân phạm được ân xá
trong trường hợp tình nguyện gia nhập quân đội đãi công chuộc tội.
Một điều ghi nhận khác nữa là các đơn
vị Việt Nam Cộng Hòa được thay thế các vũ khí cũ bằng vũ khí mới M-16. Loại
súng này là loại tối tân nhất của Hoa Kỳ vào năm 1968. Việc trang bị vũ khí mới
đã làm cho các đơn vị tăng thêm hỏa lực, binh sĩ tăng thêm tinh thần chiến đấu.
Ngày 31 tháng 3/1968, Tổng Thống
Johnson ra Lệnh cho Không Quân Hoa Kỳ hạn chế oanh tạc Miền Bắc và ngỏ ý hoà
đàm với Bắc Việt. Trong khi đó, tại Việt Nam ngày 1 tháng 4/1968 quân đội Mỹ mở
một cuộc hành quân giải tỏa Khe Sanh. Cuộc hành quân được giao cho Sư Đoàn 1
Không Kỵ. Sơ khởi hành quân trực thăng vận chiếm mấy ngọn đồi cao chế ngự Quốc
Lộ 9, các đoàn quân chính gồm chiến xa và bộ binh dựa theo quốc lộ này tiến vào
Khe Sanh.
Cuộc hành quân chậm chạp không gặp
chống cự chống trả mãnh liệt của địch. Lực lượng giải tỏa Việt Mỹ khoảng 20,000
người gồm các binh sĩ thuộc Sư Đoàn 1 Không Vận, Sư Đoàn 3 Thủy Quân Lục Chiến
(TQLC) Hoa Kỳ và một chiến đoàn Nhảy Dù Việt Nam Cộng Hòa. Căn cứ Khe Sanh bị
quân Bắc Việt bao vây 76 ngày. Đến ngày 5 tháng 4/1968, Khe Sanh được giải tỏa.
Ngày 6 tháng 4/1968, Hoa Kỳ chính thức
liên lạc ngoại giao với Bắc Việt để mở hội nghị hòa đàm, và ngày 8 tháng 4/1968
nhận được đáp thư của Bắc Việt chấp nhận. Hai bên tiến đến chỗ tìm một
địa điểm hòa đàm mà sự chọn lựa địa điểm đã kéo dài đến gần một tháng vẫn không
giải quyết được. Bắc Việt đề nghị mở hội đàm ở Ba Lan hoặc Cao Miên, Hoa
Kỳ ngược lại đòi mở hội đàm tại một trong 10 nước: Tích Lan, Nhật Bản,
Pakistan, Nepal, Afghanistan, Mã Lai, Ý, Bỉ, Phần Lan hoặc Úc.
Vào khoảng trước ngày 10 tháng 4/1968,
một thượng tá Việt Cộng tên Tám Hà về hồi chánh. Viên thượng tá này tiết lộ là
Việt Cộng đang chuẩn bị tấn công thủ đô Saigon, khu Chợ Lớn và Gia Định. Tám Hà
cũng cho biết khoảng chừng trên 10,000 cán binh Việt Cộng đang chuẩn bị tấn
công thủ đô Saigon vào ngày 22 tháng 4/1968. Nhưng có thể vì lý do nào đó đã
chậm lại. Lực lượng tấn công của Việt Cộng gồm 2 trung đoàn thuộc Công Trường
(CT) 9, hai trung đoàn thuộc Công Trường 5 và được tăng cường thêm chừng hai
trung đoàn địa phương gồm các Trung Đoàn 165 và Trung Đoàn Đồng Tháp.
Để công kích Saigon, Công Trường 9 sẽ
đánh từ vùng ven đô Tây-Bắc. Mục tiêu tấn công gồm cả phi trường Tân Sơn Nhất.
Trong khi đó Công Trường 5 sẽ tấn công từ phía Tây và phía Nam. Các mục tiêu
được chọn lựa và các cứ điểm quân sự, nhà đèn, các nơi tiện nghi công cộng và
trọng yếu trong thành phố. Các đơn vị quân đội tại Saigon mới được giải tỏa 50 phần
trăm phải cấm trại trở lại 100 phần trăm khi nhận được tin tiết lộ này.
Ngày 28 tháng 4/1968, Sư Đoàn 1 Không
Kỵ Hoa Kỳ hành quân trực-thăng vận bất ngờ vào thung lũng A Shau, nơi đặt một
căn cứ tiếp vận quan trọng của Bắc Việt. Cuộc hành quân này đã dùng đến hơn 200
phi cơ trực thăng. Sau đó, một chiến đoàn Nhảy Dù Việt Nam Cộng Hòa được gởi
ngay đến để tăng cường. Tại thung lũng A Shau, quân Cộng Sản Bắc Việt chống trả
yếu ớt. Tuy nhiên súng phòng không địch tác xạ rất hiệu quả làm 30 trực thăng
của Hoa Kỳ bị hư hại. Liên quân Việt-Mỹ phá hủy và tịch thu được rất nhiều
chiến cụ trong cuộc hành quân này.
Trong khi đó, cuộc dàn xếp chọn một địa
điểm nghị hòa vẫn diễn tại Lào giữa Đại Sứ William S. Sullivan của Hoa Kỳ và
tổng đại diện Nguyễn Chấn của Bắc Việt. Cuộc tiếp xúc riêng này đã mang đến kết
quả là ngày 3 tháng 5/1968, Hoa Kỳ và Bắc Việt công bố chọn Paris làm địa điểm
hội nghị sơ bộ.
Cuộc hội họp đầu tiên được ấn định vào
ngày 10 tháng 5/1968. Sau đó hai bên công bố thành phần phái đoàn. Phía Hoa Kỳ,
ông Harriman trưởng phái đoàn. Ông Cyrus Vance cố vấn đặc biệt cho Tổng Thống
Johnson làm phó trưởng phái đoàn. Tướng Andrew Godpaster, phụ tá của tướng
Westmoreland ở Việt Nam làm hội viên. Ông Jordan chuyên viên về các vấn đề Việt
Nam tại Hội Đồng An Ninh Quốc Gia, kiêm thứ trưởng ngoại giao phụ trách Viễn
Đông sự vụ, làm hội viên, v.v...
Phía Bắc Việt, ông Xuân Thủy, Bộ Trưởng
Không Giữ Bộ Nào (chức vụ "Bộ Trưởng Không Giữ Bộ Nào" thật sự là một
chức vị hoàn toàn có thật trong chánh quyền Cộng Sản Bắc Việt) làm trưởng đoàn,
Đại Tá Hà Văn Lâu là đại-sứ trưởng phái đoàn Bắc Việt, Nguyễn Minh Vỹ và Nguyễn
Thành Lê là hội viên, v.v...
Trong khi hội nghị chính trị Paris
thành hình, chiến cuộc tại Việt Nam vẫn gia tăng mức độ. Mọi người đều nghi và
biết như vậy nhưng không hiểu cường độ chiến tranh sẽ gia tăng vào lúc nào và ở
những nơi nào.
Ngày 4
tháng 5/1968, một triệu chứng đầu tiên khơi mào cho một cuộc tấn công lớn được
phát hiện. Đó là một tiếng nổ rất to do Việt Cộng gây ra ở gần đài vô-tuyến
truyền hình tại Saigon. Khoảng 60 kg chất nổ TNT được dấu trên xe taxi. Lúc 13
giờ trưa, chiếc taxi bùng nổ gây tử thương cho 3 người chết và khoảng 30 người
khác bị thương. Một căn nhà ở gần đài truyền hình cũng bị sập đổ.
Người ta cho rằng tiếng nổ này là một hiệu
lệnh của Việt Cộng phát động cho cán binh của họ mở cuôc tấn công vào thủ đô
Saigon ngày hôm sau.
Chỉ 24 giờ sau khi tin Hoa Kỳ và Bắc
Việt thảo luận họp nhau ở Paris được tung ra là Việt Cộng đã mở cuộc tấn công
vào Saigon. Cuộc tấn công này phát xuất lúc 03 giờ 10 chiều ngày 5 tháng
5/1968. Lúc đầu, Việt Cộng bắn những loạt trọng pháo loạn xạ bưà bãi vào thành
phố. Sau đó các đơn vị võ trang của họ xuất hiện tại nhiều nơi. Tuy cuộc tấn
công được khai diễn trên toàn quốc bằng hỏa lực pháo kích, nhưng mục đích thật
sự là Cộng quân muốn chỉa mũi dùi bộ-chiến vào thủ đô Saigon.
Cuộc tấn công của Việt Cộng ngày 5 tháng 5/1968 vào Saigon kéo dài đến
ngày 12 tháng 5/1968 mới chấm dứt. Các lực lượng võ trang Việt Cộng chỉ lọt
được vào vùng ven đô. Sau đó họ lần lượt bị tiêu diệt và đẩy lui ra khỏi thành
phố.
Ngày 25 tháng 5/1968, Việt Cộng lại
tiếp tục tấn công thủ đô Saigon. Lần này họ xâm nhập qua Đồng Ông Cộ vào khu
vực Ngã Năm Bình Hòa và những khu kế cận. Họ chiếm và cố thủ trong các nhà của
thường dân vô tội để chống lại cuộc phản công của quân đội Việt Nam Cộng Hòa.
Tại Chợ Lớn, Việt Cộng cũng xâm nhập được vào nhiều khu phố thuộc Quận 6. Họ tổ
chức chiến đấu ngay trong các khu vực đông dân cư, chiếm mấy nhà kiên cố làm
pháo đài. Các trận chiến xảy ra tại những khu vực này vô cùng khốc liệt
ĐƯỜNG LỐI CHIẾN LƯỢC VÀ CHIẾN THUẬT CỦA VIỆT CỘNG
TRONG CUỘC TẤN CÔNG ĐỢT HAI VÀO SAIGON
Trong chiến lược tổng tấn công kỳ trước
(đợt 1), chính Việt Cộng đã nhận thấy sai lầm khi lực lượng võ trang được trãi
rộng ra để tấn công cùng một lúc tại khắp nơi. Chiến lược dùng quân sự
trãi-rộng chỉ khi nào quân lực tấn công mạnh hơn đối phương, còn nếu yếu hơn
tất nhiên không đủ lực để đánh, sẽ bị thất bại. Việt Cộng hiện nay tại Miền Nam
không có yểm trợ không quân, cần phải chọn điểm rồi tập trung lực lượng đông và
thay phiên đánh mới mong thắng được.
Chọn lựa những mục tiêu chiến lược để
hậu thuẫn cho hội nghị Paris chẳng còn mục tiêu nào tốt hơn là các thành phố,
và nhất là Saigon vì đánh vào được Saigon sẽ gây những tiếng vang chính-trị lớn
và làm rối loạn hệ thống lãnh đạo của đối phương.
Chiến thuật của Việt Cộng áp dụng trong
kỳ đầu tháng tháng 5 năm 1968 như sau :
- Tránh né tất cả những vị trí đóng
quân của Việt Nam Cộng Hòa mà lần trước họ đã tấn đánh.
- Xâm nhập vào các khu dân cư, nhờ đêm
tối, và vào những chỗ không có quân án ngữ.
- Khi bám vào nhà cửa tại khu vực xâm
nhập, Việt Cộng chấp nhận thiệt hại, đợi quân ta đến đánh và không chịu thối
lui.
- Nếu các lực lượng ngăn chặn không kịp
thời phản ứng, Việt Cộng sẽ lan tràn ngay sang các khu dân cư khác và tăng viện
quân mới đem vào để mở rộng vết dầu loan.
- Áp dụng chiến thuật nội công ngoại
kích bằng các toán đặc công gây xáo trộn ngay trong thành phố.
Trong các ngày biến động, các toán Việt
Cộng đã vào được các khu Thị Nghè, Bảy Hiền, Minh Phụng, Bình Thới, Bình Tiên
và Phạm Thế Hiển, v.v... Các lực lượng Việt Nam Cộng Hòa đã ngăn chận hữu hiệu
không cho Việt Cộng lan tràn sang các khu vực khác. Nhưng để đẩy lui hẳn đối
phương, quân đội miền Nam đã phải dùng hỏa lực mạnh mẽ của phi pháo và chiến xa
mới làm chủ tình hình được.
Đúng ra khi mở mặt trận tại thành thị,
Cộng quân chỉ nhằm duy trì một tình trạng bất an nhưng không nhằm thâu những
chiến thắng quân sự lớn lao. Họ chỉ dùng những tình hình xáo trộn để phá vỡ nền
tảng kin tế và chính trị của chánh phủ Việt Nam Cộng Hòa, đồng thời tìm cơ hội
khuynh đảo chính phủ Quốc Gia. Để thực hiện mặt trận này, Cộng Sản đã dùng du
kích chiến nhưng đã chế biến đôi chút để thích nghi với kỹ thuật chiến đấu
trong thành phố
Ngày
12 tháng 5/1968, Việt Cộng bị đánh bật ra. Nhưng tới ngày 25 tháng 5/1968
họ lại xâm nhập vào đô thành tại hai ngã: ở phía Bắc Gia Định và từ phía Nam
Chợ Lớn. Việt Cộng áp dụng một chiến lược như kỳ trước là đột nhập khu dân cư
và bám sát vào khu này chống đánh các lực lượng giải tỏa.
Lần này Việt Cộng đã khai thác được những sơ hở của phòng đai
phòng thủ nên các phần tử địch đột nhập vào rồi quân ta mới biết. Trước khi nổ
súng, Việt Cộng rãi quân chiếm giữ tất cả những địa điểm then chốt trong khu
vực như các tòa nhà lớn, nhà máy, xí nghiệp, các nơi tôn nghiêm. Ngoài ra tại
các khu đất trống và gò mả Việt Cộng còn đào các hầm hố chiến đấu.
Khi đã bám vào được các khu vực vừa chiếm, mỗi đêm họ cho tăng
viện thêm quân vào. Đoàn quân di chuyển vào theo từng toán nhỏ nhưng những toán
này được trang bị hỏa lực rất mạnh. Đây là những cán binh đã được dưỡng quân
lâu dài. Trong khi đó, các đơn vị mệt mỏi và bị thiệt hại thì lại được rút ra.
Chiến thuật này được gọi là "xa luân chiến" với mục đích tạo một cuộc
đánh dài lâu vào thủ đô.
Việt Cộng áp dụng phương pháp du-kích chiến trong thành phố. Bị
đánh ở nơi này, họ bèn bỏ chạy sang nơi khác, nhưng vẫn cố bám vào các khu vực
đông dân cư và chẳng chịu rút ra. Khi Cộng quân cố thủ tại những vị trí chiến
đấu vững chãi, họ có thể gây cho lực lượng phản công của quân đội VNCH nhiều
thiệt hại. Việt Cộng không tập trung đóng tại một chỗ, mà lại chia quân ra
nhiều ổ kháng cự gồm trên dưới một tiểu đội.
Do đó các cuộc hành quân giải tỏa của quân đội VNCH đã rất khó
khăn. Để ngăn cản sự bành trướng của Việt Cộng và tiêu diệt họ ở trong những vị
trí chiến đấu kiên cố, quân đội chánh phủ đã phải sử dụng đến phi cơ và chiến
xa.
Cũng kể từ cuộc tấn công đợt hai vào Saigon, hằng đêm Việt Cộng
bắn hàng loạt hỏa tiễn 122 ly và đạn súng cối 82 ly bừa bãi vào các khu phố gây
nên một sự chết chóc và sợ hãi trong dân chúng.
Tóm lại, qua các cuộc tấn công của Việt Cộng vào Saigon, có thể
nhận định rằng họ đã thay đổi chiến lược một cách rõ rệt. Trong cuộc tổng công
kích Tết Mậu Thân đầu tiên, Việt Cộng chỉ nhằm đánh vào các cơ quan quân sự và
đưa các cán bộ chính trị vào các thành phố để khuấy động qua các cuộc biểu tình
chống chính phủ.
Đối với cuộc tấn công kỳ hai, ngày 5 tháng 5/1968, Việt Cộng không
đánh vào một cứ điểm quân sự nào mà lại xâm nhập Saigon qua các khu dân cư, rồi
bám vào các nơi này để chống đánh lại các lực lượng của chánh phủ.
Còn đối với các cuộc tấn công ngày 25 tháng 5/1968, Việt Cộng cũng
áp dụng phương pháp tác chiến như cuộc tấn công ngày 5 tháng 5/1968, nhưng lần
này họ cố tạo ra một cuộc đánh lâu dài với hầm hố và công sự chiến đấu được tổ
chức chu đáo và cũng trong lần này họ đã rút tỉa được kinh nghiệm của các kỳ
trước để tránh các thiệt hại về quân số.
Trong cuộc tổng công kích Tết Mậu Thân đầu tiên, họ không pháo
kích vào Saigon. Nhưng trong cuộc tấn công đợt hai này họ đã pháo kích bừa bãi
ngay vào các khu dân cư. Đây là một chiến thuật đê hèn nhằm phá vỡ nền tảng
kinh tế, bần cùng hóa thủ đô, để tạo nên một mối kinh hoàng trong lòng người
dân.
Nhưng rồi tất cả những âm mưu của Việt Cộng đã đều bị bẻ gãy trước
sự suy nhược của họ. Nhiều cán binh mất tinh thần vì con số chết chóc phiá bên
họ đã quá cao. Sự việc này làm cho nhiều cán binh trẻ tuổi không chịu nổi. Họ
đã buông súng, đã đầu hàng tập thể để mong cứu lấy mạng sống của họ, và cũng
như để chạy về hàng ngũ của chánh phủ Quốc Gia.
SOURCE:
No comments:
Post a Comment