LTS:
Quốc Thái là bút hiệu của Thiếu tá Đinh Hùng Cường, một sĩ quan trẻ đầy nhiệt huyết. Trong những năm tháng cuối của cuộc chiến tại Việt Nam, anh giữ chức vụ Quận trưởng kiêm Chi khu trưởng Thủ Thừa tỉnh Long An. Quốc Thái và gia đình hiện cư ngụ tại thành phố Reston thuộc tiểu bang Virginia. Nhân dịp đọc Đặc San Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hòa, anh đã nhiệt tình gửi bài đóng góp. Chân thành cám ơn Quốc Thái và mong có dịp được đọc bài vở của anh nhiều hơn. Đó là Quận Thủ Thừa của tỉnh Long An, nằm dọc theo Quốc lộ 4 khi chúng ta nhìn về bên phải từ hướng Saigon đi xuống qua quận Bến Lức. Thời điểm mà tôi ghi lại những giòng chữ này xảy ra vào nhừng ngày cuối tháng Ba, năm 1975 khi Ban Mê Thuột vừa thất thủ, áp lực của cộng quân đè nặng trên khắp 4 vùng chiến thuật. Chúng tôi đang ngăn chận đường dây xâm nhập của địch từ vùng Mỏ Vẹt, Ba Thu và Kiến Tường…
***
Giờ này đại quân của VC đã tràn
xuống. trận đánh mở màn làm cho tôi xính vính. Tôi biết chủ lực bọn Cộng sản
nằm bên kia biên giới Cam Bốt, nhưng một bộ phận chính đang nằm ở phía bắc xã
Long Ngãi Thuận, chúng hăm he muốn "chơi" Tiểu đoàn của Cử. Thiếu tá
Cử xuất thân khóa 9 Thủ Đức, là một sĩ quan anh hùng, có tài chỉ huy và biết
chỗ đứng của mình nên tôi rất kính trọng và quý mến ông. Tôi đối xử với ông như
bạn, xung trận cùng nhau, chia sẻ ngọt bùi nơi trận địa. Tôi triệu Cử về, bàn
định là phải tính kế với bọn này. Tôi làm lệnh hành quân dùng tuần giang đưa
Tiểu đoàn Cử đi hành quân và thay thế khu này là một đại đội biệt lập. Tiểu
đoàn dời đi buổi sáng chẳng ngay trong đêm là đoàn tàu lại bốc đủ Tiểu đoàn đem
về Mỹ An Phú, một xã đối diện, để ém quân đợi lệnh. Mưu kế của tôi và Cử có
phần thành tựu. Ngay đêm sau, xã Long Ngãi Thuận bị tấn công. Địch chiếm ấp và
vây hãm căn cứ hành quân của tiểu đoàn mà hiện chỉ có một đại đội biệt lập trấn
đóng. Hai khẩu 155 ly đã kín đáo dời lên xã Mỹ Lạc Thạnh từ trước. Tiểu đoàn Cử
sẽ được chia làm hai cánh, một mặt chận đường rút, một mặt tấn công vào hông
của địch, đồng thời trong đồn cũng nhận lệnh phản công mãnh liệt.
Cuộc chạm súng bắt đầu từ tờ mờ
sáng. Sư đoàn 3 Không quân cho một chiếc L19. Tôi yêu cầu quan sát viên ở lại
để cho tôi được xử dụng máy bay. Người phi công là dân chịu chơi, bất chấp hiểm
nguy, anh ta xuống thấp gần 500 bộ (khoảng 200 thước cách mặt đất) để tôi nhìn
rõ hầm hố và khả năng tham chiến của địch. Địch đã kẹt cứng trong ấp là vùng
sình lầy nước ròng, không giống như những vùng đất đỏ như Tam Giác Sắt, Bời Lời
hay Dương Minh Châu nên không thể đào hầm hố để trú ẩn. Ở đây lộ mục tiêu là
chết! Gần 3 tiếng đồng hồ tôi dùng phi pháo, đánh cho địch nhào ra trước khi
Tiểu đoàn của Cử có thể tiến quân tiếp địch.
Kết quả sau cùng, Tiểu đoàn của Cử toàn thắng. Mối thù tháng trước đã trả, nhưng vấn đề từ nay có lẽ phức tạp hơn thế nhiều. Một câu hỏi khúc mắc cứ lởn vởn trong đầu tôi. Từ trước đến nay lính Cộng Hòa gọi tụi Cộng sản là "chuột" vì chúng luôn luôn trốn chui trốn nhủi, chỉ nhảy ra cắn trộm như nổ mìn, phục kích hay pháo kích, nay bỗng dưng chúng công khai ra mặt, đối đầu đánh lớn với quân mình; có thể là Mỹ yểm trợ chúng tôi yếu, hay chúng muốn đi đến hồi kết của chiến tranh?
Kết quả sau cùng, Tiểu đoàn của Cử toàn thắng. Mối thù tháng trước đã trả, nhưng vấn đề từ nay có lẽ phức tạp hơn thế nhiều. Một câu hỏi khúc mắc cứ lởn vởn trong đầu tôi. Từ trước đến nay lính Cộng Hòa gọi tụi Cộng sản là "chuột" vì chúng luôn luôn trốn chui trốn nhủi, chỉ nhảy ra cắn trộm như nổ mìn, phục kích hay pháo kích, nay bỗng dưng chúng công khai ra mặt, đối đầu đánh lớn với quân mình; có thể là Mỹ yểm trợ chúng tôi yếu, hay chúng muốn đi đến hồi kết của chiến tranh?
Chỉ huy là tiên liệu. Tôi phải lo
toan trước khi quá trễ. Lợi dụng hai trận đánh lớn vừa qua, tôi động viên toàn
thể quân sĩ từ bộ chỉ huy đến đơn vị, chỗ nào tôi cũng tạo không khí chiến
tranh sôi sục. Lệnh tích lũy 60 ngày ăn với nước uống được ban hành, lính tráng
hành quân liên miên trừ sĩ quan là không phải chạy, từ hạ sĩ quan trở xuống,
nếu cấp trên gọi cấp dưới thì cấp dưới phải chạy, anh nào đi đứng tà tà là bị
đưa đi ngay. Tất cả cao ốc, bồn nước, lính phải đặt bao cát, đem đồ ăn dự trữ
trên đó. Làng xã nhân dân tự vệ cho vào khuôn phép, không còn đắc nhân tâm gì
cả, anh nào lôi thôi bị đá thẳng cánh.
Có lần Bộ chỉ huy tập báo động,
Chỉ huy trưởng Cảnh Sát coi thường, vẫn để đèn, còn vặn máy thu thanh nghe cải
lương trong khi lính Chi khu đang phải chạy vào hầm hố. Lập tức Chỉ huy trưởng
Cảnh Sát bị gọi qua để nhắc nhở và cảnh cáo. Ngay ngày hôm sau, đích thân Cảnh
sát trưởng phải đi hành quân với Chi khu. Hôm đó Trung tâm Phượng Hoàng lên kế
hoạch hành quân cảnh sát ngay vào ổ Việt cộng, và tôi đã yêu cầu ông Thiếu tá
Cảnh Sát nhảy tàu với tôi. Nước ngập tới ngực, chưa vào tới bờ đã bị du kích
bắn tỉa. Chỉ huy trưởng Cảnh Sát mặt mày xanh lè, không phải vì nước lạnh mà vì
mạng sống người cảnh sát đang làm việc ở nơi an lành bỗng dưng ra đây thí mạng
"cùi".
Sau cuộc hành quân Phượng Hoàng
này, mỗi khi Chi khu nổi còi báo động là đèn đóm tắt ngúm và bên cảnh sát kỷ
luật hơn ai hết. Mọi người biết là lệnh thật, không còn ai đùa nữa. Chỉ thị ban
ra điều được kiểm soát để thi hành nghiêm chỉnh. Tôi mật lệnh cho Đại úy Lộc,
Trưởng Ban 4, khi có chiến tranh là lập tức thi hành hai việc: Đem đoàn tàu ra
thu kho gạo của ông Ba Bài về nuôi quân và phát cho lính phòng thủ ăn, đồng
thời lấy lực lượng trừ bị chiếm cây xăng, lấy xăng cho lính chở quân. Hành động
chiếm đoạt của tư này dễ làm tôi bay chức, có khi còn đi tù nữa, nhưng tôi nếu
mọi sự xảy ra như dự đoán chắc cái mạng mình cũng sẽ chẳng còn, không lấy thì
Việt cộng cũng nhào vô cướp, vô tình mình nhường đồ tiếp tế cho chúng đánh
mình. Thà chơi trước, chết tính sau!
Phần lính đã lo xong, phần dân
cũng phải động viên tinh thần họ. Đại úy Phước được lệnh tổ chức Tiểu Diên Hồng
tại quận để công khai cho dân lành biết là Thủ Thừa đánh Việt cộng đến cùng.
Tất cả làng xã, viên chức, tư chức, thầy giáo, dân cử, thân hào nhân sĩ được
mời đến rạp hát lớn của quận để dự lễ Tiểu Diên Hồng. Cả cái sân khấu rộng
thênh thang, được Đại úy Phước chuẩn bị cho tôi. Phó quận, cảnh sát trưởng, 9
ông xã trưởng, 9 ông chủ tịch đại diện sẽ ngồi đối diện với hội trường. Không
khí trang nghiêm và khí thế đấu tranh ngùn ngụt. Tôi tỏ bày tâm tôi thật, lòng
tôi thật, thể hiện lên lời nói chân thành và rất mạnh dạn. Tôi không chấp nhận
bất cứ một đầu hàng nào, kẻ nào bất kể quân hay dân mà quay lưng lại kẻ thù là
bị tôi bắn trước. Hãy mạnh dạn chiến đấu, "sống hùng và chết hùng".
Tôi kết thúc những lời ngắn gọn trong một hội trường im phăng phắc. Tôi hiểu
người dân dưới kia ưu tư nhiều lắm. Họ đã biết rằng miền Trung vừa thất thủ,
quận Tánh Linh đã mất không đầy một tháng. Ở cái quận nhỏ này ta và địch đã
trao đổi nhau gần 200 mạng người.
Tôi ra về với tiếng hô chào dõng
dạc của Đại úy Phước làm mọi người phải đứng lên tiễn chân. Tôi biết là đã để
lại sau lưng những người dân nhiều lo âu và ngại ngùng. Tôi nào khác họ? Cũng
là con người thì ai cũng có những điều suy nghĩ giống nhau, nhưng tôi bị đưa
lên cái thế có trách nhiệm, cái trách nhiệm này chỉ có đánh Việt cộng thì mới
chết ít, còn chạy thì chỉ tổ chết nhiều. Chạy sao được? Đánh đã, sống chết tính
sau. Quận Tánh Linh là vựa gạo của Quân khu, thế mà Việt cộng bao vây có 3
ngày, cả quận đầu hàng và đói. Bài học này tôi phải thuộc. Tôi đã không ngần
ngại viết lệnh rõ ràng cho Đại úy Lộc đi tịch thu kho gạo của ông Ba Bài một
khi Việt cộng tấn công.
Đêm
8 rạng 9 tháng 4 năm 1975,
một lực lượng Việt cộng đánh vào tỉnh Long An chiếm phi trường Cần Đốt, một lực
lượng khác đánh vào bên hông tỉnh chiếm xã Lợi Bình Nhơn của Thủ Thừa. Cuộc
chiến bắt đầu. Quả là sau những toan tính của con người có thiên định. Hai cánh
quân đánh vào Long An chỉ là để dương đông kích tây để cầm chân quân tiếp viện.
Chủ lực địch là công trường 6 (sư đoàn – thực ra cái lối hù của Việt cộng –
chúng gọi là sư đoàn nhưng quân số chỉ bằng trung đoàn của ta) nằm phía sau
cánh quận 5 cây số. Chúng tung từng toán đặc công tinh nhuệ, táo bạo đánh thẳng
vào hông quận qua ngã chợ. Chúng mong giết tôi xong và chiếm Bộ chỉ huy Chi khu
làchúng kéo cờ lên, đại quân của chúng sẽ tràn ngập, và với khí thế đó, quân ta
phải tan hàng như đã chạy ở miền Trung.
Có thể Đức Tiền quân Nguyễn Huỳnh
Đức đang an nghỉ trên mảnh đất này đã thương cho cái công khó nhọc của đám quân
dân quận nhà, nên Ngài mới tạo ra những cơ may hy hữu. Bọn cộng sản đã điều
nghiên kỹ càng là không bao giờ đoàn tàu đi tuần lại về đậu ở đó trước 6 giờ
sáng, nếu chúng đánh vào quận giờ đó thì gần như là lỗ trống, chỉ thọc bộc phá
phá hàng rào kẽm gai là giết được tôi dễ dàng. Không may, điều nghiên đúng,
nhưng sai cho ngày hôm đó, vì nước thủy triều cao, đoàn tàu về bến lúc gần
sáng, đúng lúc đặc công di chuyển đến nên vô tình chúng đã bị tao ngộ. Không
chịu nổi những khẩu đại liên bên thành tàu, toán đặc công đành lẩn vào dân,
chạy dạt ra chợ. Ba đêm trước, toán đặc công Việt cộng đã điều nghiên và thả
lục bình để đánh chìm tàu, chiếc tàu đi tuần về đậu chệch trên bãi, phía trước
đám lục bình mà Việt cộng đã dấu mìn. Đặc công Việt cộng cố vượt bóng đêm đẩy
lục bình ngược con nước để đẩy đám lục bình tấp vô thành tàu. Lính gác nhanh
trí thấy lục bình trôi ngược nước bèn nổ súng. Biết bị lộ, tên đặc công trên bờ
đã hy sinh hai tên dưới nước bằng cách phải cho nổ quả mìn. Tiếng nổ như trời
gầm làm tôi hoảng hồn phóng mình ra khỏi hầm.
Như vậy là cái may thứ nhứt đã giúp
cho Bộ chỉ huy thoát chết. Cái may thứ hai: theo thường lệ, Đại úy Khánh,
Trưởng Ban 3 ra lệnh cho 200 lính Nghĩa Quân về quận nhận lệnh đi phát quang xạ
trường, tránh không cho Việt cộng ẩn núp. Khi toán đặc công dạt ra chợ thì
trông quận đã có 200 lính với súng đạn sẵn sàng, Đại úy Khánh chỉ việc điều
động cho đánh, công việc xẩy ra nhịp nhàng như ông Trời xếp sẵn . Tính trạng
tấn công tràn ngập đã không xảy ra, vì tất cả những chuẩn bị trước đã nhịp
nhàng ăn khớp. Từ trong hàng rào phòng thủ, Đại úy Lộc ra liên lạc với đơn vị
Thủy Quân Lục Chiến mới về tăng phái, phóng mình lên đoàn tàu trực chỉ nhà máy
gạo Ba Bài. Trung đội trừ bị chiếm cây xăng.
Bộ chỉ huy của tôi với Nhất kiếm
(Ban 1), Nhị hà (Ban 2), Tam sơn (Ban 3), Tứ hải (Ban 4) , Ngũ hổ (Ban 5) và
Lục bảo (Ban 6) phân tán ngay vào các cánh quân chiến đấu trong đường phố. Lệnh
oang oang của nhiều máy phóng thanh thuộc Chi Tin tức Quận ra lệnh cho tất cả
tàu bè dời về phía bên này sông, không cho địch chiếm để vượt sông. Nói là con
sông thì hơi quá, nó chỉ là con kinh bề ngang 100 thước nằm ngang quận. Vài tên
đặc công Việt cộng chạy lạc vào Thánh Thất Cao Đài đã bị lực lượng chiếm cao ốc
hạ sát ngay. Cả toán còn lại bị dồn vào trong rạp hát. Chúng tử thủ bên trong.
Cảnh sát dã chiến và tổ tình báo Chi khu đã trổ nóc đánh xuống, giết một mớ và
bắt sống trọn ổ. Thiếu tá Tống, Chỉ huy trưởng Cảnh sát tỉnh, đích thân chở tù
binh về khai thác. Trong khi đó tình hình ở tỉnh cũng lắng dịu, lực lượng Việt
cộng đã bị đánh văng khỏi phi trường Cần Đốt. Vĩnh Đường gọi tôi báo Công
trường 5 Việt cộng ở sau lưng nên ông cho 2 tiểu đoàn ĐPQ xuống tăng cường, dàn
quân thanh toán bọn chúng.
Vừa chiến thắng trận đầu lại bảo toàn được chủ lực,
lòng tôi vui sướng vô cùng. Tin tức bay nhanh không tả. Phóng viên, ký giả từ
Sài Gòn đổ xuống nườm nượp. Cả Đại tá Cục phó Cục Quân y cũng xuống ủy lạo
thương binh.
Hai Tiểu đoàn ĐPQ bây giờ đổ
xuống ngập chợ. Cả cái quận lỵ nhỏ bé chứa toàn là lính. Lấy văn phòng quận làm
tâm điểm, một tiểu đoàn cánh trái, một tiểu đoàn cánh phải lần lượt qua sông
dàn quân xuất phát. Từ trên nóc công sự phòng thủ, tôi liên lạc với cả hai cánh
quân. Trên 600 người lính dàn hàng ngang đã tạo một chiều dài cả cây số. Tôi
chưa cho lệnh tiến quân vì khi xã Lợi Bình Nhơn thất thủ, Chi khu đã ra lệnh
cho Đại úy Hải, Đại đội trưởng Đại đội Biệt lập vượt sông Vàm Cỏ về làm tuyến
án ngữ phía cầu Long An để chận đặc công Việt cộng có thể xâm nhập phá cầu,
đồng thời cũng để dò xét dọc sông Vàm Cỏ xem Việt cộng có ém quân ở đó không.
Hải chạm súng lẻ tẻ chứng tỏ chỉ có du kích quân chận mình. Đây là lúc hai tiểu
đoàn được lệnh xuất quân.
Trời tháng Tư, chưa vào mùa cầy cấy, đất còn khô và
nứt nẻ. Những thửa ruộng bỏ trống đã làm cho quân ta có xạ trường quan sát rất
xa. Hai cánh quân liên lạc hàng ngang tiến song song. Từ trên lô cốt, tôi theo
dõi bằng mắt và giữ liên lạc máy với hai Tiểu đoàn trưởng. Quân đi khoảng 800
thước thì bắt đầu chạm địch. Điều khủng khiếp nhất là chạm súng trên một tuyến
dài cả cây số, hỏa lực địch mạnh đến nỗi đạn cày dưới chân tôi như đàn dế rúc.
Đủ loại súng mạnh, cối 61, cối 82 và 130 ly choảng liên hồi về phía bạn. Quân
ta chỉ chống trả bằng những vũ khí cá nhân, và là khu dân chúng nên không thể
dùng hỏa lực pháo binh.
Trời ạ! Không thể ngờ được. Sau
những đợt hỏa lực dũng mãnh, cộng quân bắt đầu xung phong và tràn ngập. Chúng
ùa lên đen cả cánh đồng trước mặt, cuộc cận chiến không xảy ra, nhưng tấn công
biển người vũ bão. Hai tiểu đoàn ĐPQ buộc phải rút về tuyến A. Và chỉ chớp
nhoáng là 600 người lính đâm đầu xuống nước. Hai tiểu đoàn tinh nhuệ đã bị địch
áp đảo đến nỗi không còn sức phản công. Điều may mắn cuối cùng là nhờ con sông
thiên nhiên chắn lối, nếu không, sự lui quân của hai tiểu đoàn đã lôi theo 60
ngàn dân trong quận Thủ Thừa sẽ thất thủ chớp nhoáng vào tay địch. Tôi đứng như
chết sững giữa lằn đạn của quân thù. Sự lâm nguy của tiểu đoàn làm tôi quên cả
sợ chết, nếu không phản ứng kịp thì chỉ trong năm, mười phút nữa Việt cộng sẽ
tràn đến bờ sông. Chúng sẽ tha hồ xả súng tiêu diệt quân ta đang loi ngoi dưới
sông. Tuy nhiên, điều may mắn cuối cùng đã đến, cũng do lòng trời còn thương
cái mạng quèn của tôi và đám quân dân, thảng hoặc sự linh thiêng của Đức Tiền
quân một lần nữa đã xui khiến ra không chừng.
Số là vịnh Thủ Thừa ăn thông với
sông Vàm Cỏ, tại đây bị ảnh hưởng của nước thủy triều khi lên khi xuống, và nếu
gặp nước ròng thì tàu bè xuống thấp, có khi mũi tàu chưa lên cao bằng bờ đất
nên vũ khí trên tàu hoàn toàn bất khả dụng. Trong lúc này vào đầu tháng âm
lịch, nước không lên mà cũng không xuống. Nó luôn luôn đầy bờ và giữ nguyên
mực. Nhờ vậy khi tôi chỉ thị, đoàn tàu được che dấu từ cái lạch con tiến ào ra
xung trận.
Lệnh của tôi rất rõ ràng:"di
chuyển trên sông và tác xạ. Mỗi tàu có 6 đại liên 50. Một bên thành tàu là 3
đại liên. Sáu chiếc tàu tuần giang có 18 khẩu đại liên, mỗi phút có thể nhả
6.000 viên đạn, đã di chuyển hàng dọc trên sông và tác xạ nhịp nhàng. Đại đội
trưởng Tuần giang nhận lệnh rõ ràng chiếc nào trúng B40 bị chìm là bỏ, không
tàu nào được dừng lại để tiếp cứu tàu nào, tiếp tục xạ kích cho đến khi đẩy lui
được địch. Đại quân của địch đang hăng tiết xung phong đến điểm chiến thắng,
bất ngờ bị hỏa lực quá mạnh của đoàn Tuần giang làm chúng gục xuống như sung
rụng.
Bọn Cộng cũng phản ứng nhanh, chúng phản công bằng B40, B41 và các loại
súng cối thi nhau nổ trên sông, rơi xuống như mưa bão. May mắn cho đoàn tàu ở
thế di chuyển nên chưa chiếc nào trúng đạn, nhờ vậy mà hàng rào hỏa lực đã chận
đứng được cuộc xung phong khổng lồ này. Đoàn tàu đã tạo một lưới lửa trên sông.
Tôi vui mừng cứ đứng ỳ trên lô cốt quên cả sợ chết. Bốn thầy trò tiếp tục trên
đỉnh lô cốt mà quan sát và liên lạc. Gần một tiếng đồng hồ sau, hai tiểu đoàn
ĐPQ mới ngoi lên khỏi mặt đất, tái bố trí và bắt đầu tiến lên để tiếp tục giao
tranh với bọn Việt cộng. Hai tiếng đồng hồ sau đó địch bị đẩy lui hoàn toàn.
Cám ơn tất cả những đấng thiêng liêng đã cho bọn Cộng sản chọn cuộc tấn công lúc
nước thủy triều không xuống thấp, đã cho đoàn tàu không bị sứt mẻ, sáu cái còn
nguyên vẹn và tạo ra một chiến thắng lẫy lừng, cứu được Quận và cứu được 600
mạng lính. Địch chẳng còn bao nhiêu đã rút thật xa, không lấy được xác, chúng nằm ngổn ngang đầy một cánh đồng. Trận sống mái nghiêng phần thắng về quân ta,
làm các đồn bót nức lòng lên tinh thần, các nghĩa quân bắt đầu làm chỉ điểm cho
hai con gà cồ 155 ly pháo kích vào những nơi địch quân lẩn trốn. Một quả đạn
155 ly nặng 45 kg, sức nổ tàn phá và sát hại 50 thước vuông. Với sự chỉ điểm
của các đồn bót, buổi chiều hôm đó ta đã tác xạ khoảng 800 quả đạn, thương vong
của địch lên cao độ khó mà phối kiểm.
Ngày một ngày hai đã đi qua nhanh
chóng. Quận nhà vẫn đứng hiên ngang. Chiến thắng Thủ Thừa đã vang dội cả miền
Nam và thế giới. Nước bạn Hoa Kỳ cũng buồn vì muốn đồng minh chết sớm mà còn có
những chiến thắng này thì khó "nhá"quá. Đài VOA và BBC đã đặt bản tin
là chiến thắng lớn tại Thủ Thừa và phát thanh trên băng tầng của họ.
Nói chung, chiến thắng Long
Khánh, chiến thắng Long An đã đem lại phần nào niềm tin cho người dân, người
lính. Sau trận thất thủ Ban Mê Thuột, thượng cấp sử dụng danh từ "di tản
chiến thuật" để che dấu sự thất trận và tháo chạy của ta, trong khi đó lại
bồi thêm bằng tất cả xảo thuật tuyên truyền để lung lạc quân sĩ và dân chúng
miền Nam, nào là "ngưng bắn da beo", Mỹ chỉ cho mất Vùng 1 và Vùng 2
thôi, còn Vùng 3, Vùng 4 sẽ được giữ lại. Cứ thế mà người lính chạy dài vì yên
trí là Mỹ và chính phủ Sài Gòn đã đồng ý như thế nên tin đồn tung ra tới tấp.
Bộ Dân vận cũng như Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị vẫn giữ im lặng một cách
đáng sợ. Điều buồn nhất là trong tình thế một mất một còn, lãnh đạo miền Nam
không tung được một đòn phản công nào đánh địch để thức tỉnh đồng bào, cứ lặng
lẽ để bọn Cộng sản thao túng trên chiến trường, và tuyên truyền mạnh mẽ đến làm
tan rã hàng ngũ Quốc Gia.
Chiến thắng lớn ở Thủ Thừa và
Long An chỉ là một chiến thắng về chiến thuật nhất thời, không lật ngược được
thế cờ, và địch bổ sung quân số rất nhanh, chỉ hai ngày sau chúng đã tập trung
lực lượng, không dại dột tấn công biển người nữa. Chúng nhổ tất cả những đồn
bót của ta đóng rải rác trong tỉnh và quận để che tai bịt mắt Bộ chỉ huy. Lý do
mà chúng tăng cường nhanh, vì tất cả những đường xâm nhập vào Nam, một khi
người Mỹ đã có mật ước, họ bỏ ngỏ hết.
Trước năm 1975, một cán binh cộng sản
muốn xâm nhập vào miền Nam, hắn phải đi đường bộ, thời gian mất từ 9 đến 16
tháng mới đến được miền Nam. Đầu năm 1975, người cộng sản vào Nam tham chiến
chỉ đi mất có 11 ngày. Bọn này được chở bằng xe Molotova, đi xuyên qua đường
mòn HCM đến thẳng vùng Mimot, nơi cục R của Việt cộng (Bộ chỉ huy Trung ương
cục miền Nam), từ đó bổ sung cho các đơn vị chiến đấu nhanh cấp kỳ.
Liên tục những ngày sau, Cộng sản
thay đổi chiến thuật, dùng pháo 130 ly và những súng lớn bắn sập một số cao ốc
có quân ta chiếm đóng ở trong thị xã. Hai khẩu đại bác 155 ly bị pháo kích bể
bánh xe, không thể di chuyển được. Hai con gà cồ này đành thúc thủ, trực xạ tại
chỗ và chờ chết. Phía Bắc đa số đồn bót đã bị thất thủ. Thằng Tám Bụng ở đồn có
12 người lính bị hơn 100 VC tấn công, nó không ngần ngại xin pháo nổ ngay trên
đồn. Tôi không đành lòng cứ giữ máy liên lạc cầm chừng và chuẩn bị sẽ cho đạn
nổ chụp khi mất liên lạc hoàn toàn. Thằng Nam Lùn có 8 người lính thì 2 chết, 2
bị thương, nó vẫn bình thản chiến đấu cầm chân bọn cộng sản ở bên ngoài.
Lính chết, đồn bị mất, quân ta
không có tiếp viện. Máy bay chiến đấu không, trực thăng cũng không nốt vì Vĩnh
Đường và 31 đang sử dụng cho mặt trận ở Tân Trụ. Đến ngày thứ tư Saigon (phi
trường Biên Hòa đóng cửa) cho được một chiếc trực thăng Workship, tôi leo lên
bay lượn để quan sát địch tình, thăm viếng những đồn bót và mấy thằng em còn
sống sót. Lòng dũng cảm của những người lính chất phát và tuân hành kỷ luật này
làm tôi hãnh diện vô cùng. Trong tiếng trực thăng nổ phành phạch, truyền tin
liên lạc theo kiểu nói lóng, chỉ thấy đánh và đánh.
Trong cơn phấn chấn đó, bất
giác tôi nhớ hai khẩu hiệu mà một người lính đã kể ở một chòi canh cạnh quốc lộ
4: "Dân ta hằng anh dũng; quân ta vẫn oai hùng". Chưa cảm khái được
mấy phút thì nhìn lại quận nhà thấy tiêu điều quá, cháy rải rác khắp nơi, những
luồng khói đen thi nhau cuộn lên trời. Dân lành sợ đạn lạc đã đổ xô ra phía quốc
lộ. Hàng chục ngàn người đói khát chờ đợi sự tiếp tế của chánh quyền.. Tình
hình vô cùng rối rắm. Trong cái đầu nhỏ bé của tôi biết bao là chuyện: làm sao
ngăn chận Việt cộng, làm sao cứu dân… và làm sao để sống còn.
Trực thăng chưa
bay được nửa tiếng đồng hồ, người phi công cho biết lệnh Saigon là phải trở về
ngay. Chiếc trực thăng đảo một vòng, vứt tôi xuống bải đáp và trực chỉ Saigon
mất dạng. Đánh nhau đến ngày thứ sáu, quân ta bắt đầu mệt mỏi, thiếu đạn dược
và tiếp liệu. Sài Gòn vẫn bàng quan tọa thị để địa phương tự đánh. Mười giờ
sáng, Trung tướng Toàn, Tư lệnh Quân khu đến BCH hành quân của tôi bằng xe
jeep. Tôi không thích lối nói "huề vốn" của một số sĩ quan cao cấp ở
BCH. Tôi phủ nhận tất cả những lời trình bày của vị Trung tá Chỉ huy trưởng BCH
Chiến thuật. Tôi nói với Tướng Toàn rằng tôi trực tiếp chỉ huy trận đánh này
trong 6 ngày qua. Thế địch rất mạnh vì chúng bổ sung tổn thất cũng như đạn dược
rất nhanh. Lý do tôi còn giữ được quận là nhờ con sông thiên nhiên làm chướng
ngại vật. Tôi e rằng nếu địch đem PT-76 hay chiến xa xuống thì Thủ Thừa sẽ thất
thủ ngay vì sự kinh hoàng của lính. Ruộng vào tháng Tư khô rang, hai mươi cây
số đường chim bay từ Cam bốt, địch dễ dàng chạy chiến xa xuống. Tôi yêu cầu
Quân khu, thứ nhất tăng viện thêm quân, thứ hai tăng cường chiến xa và M-113.
Trung tướng Toàn ngồi thừ với cặp kính đen trên mắt, không nói một câu. Theo
lệnh Vĩnh Đường, tôi tạm giao trách nhiệm chỉ huy chiến thuật cho Trung tá Liên
đoàn trưởng BĐQ tăng phái để bước ra lo cơm nước cho cả chục ngàn người dân.
Đây cũng là lúc Tướng Toàn chỉ thị cho Đại tá Tường, Trưởng phòng 3 Quân đoàn
theo tôi ra quận để điêu nghiên địa thế. Tôi chưa kịp mở bản đồ thuyết trình,
pháo nặng của địch đã phóng tới. Đại tá Trưởng phòng 3 lên xe dông tuốt, tôi
chạy vội xuống hầm chỉ huy.
Sự mệt mỏi của cả một tuần lễ
không ăn không ngủ làm tôi kiệt sức. Tôi dựa lưng vào tường nhưng mắt vẫn không
rời lổ châu mai quan sát những diễn tiến của ta và địch bên kia sông. Hai tiểu
đoàn thoát chết, biết khôn đã đào hố cá nhân phòng thủ chiều ngang. Tôi không
còn một lực lượng nào để phản công ngoài hai tiểu đoàn ĐPQ bị cầm chân tại chỗ.
Tình thế này địch sẽ tiến lên chiếm quận và không hề có ý rút. Địch đã bắt đầu
pháo gần đến BCH vì lý do đại kỳ VNCH của chúng ta vẫn bay ngạo nghễ trước gió,
vô tình làm chuẩn đích cho Việt cộng tác xạ. Nhị Hà đã nhiều lần đề nghị hạ đại
kỳ nhưng tôi nhất định không chấp thuận, vì nó là biểu tượng sự sống còn của
quận, là niềm tin của chiến sĩ. Họ kiêu hãnh khi nhìn thấy lá cờ nầy mà chiến
đấu. Một loạt 130 ly rơi trúng sân cờ. Nhị Hà đã gục tại đây. Một mảnh đạn bay
trúng cổ thằng Thành, đệ tử trung thành của tôi, lo lắng cho tôi như một người
thân. Cổ họng nó máu phun có vòi. Nó gầm lên như con heo bị chọt tiết, cứ thế
chạy từ phòng này qua phòng khác, máu phun tung tóe lên trần nhà. Nó gục xuống
và chết khi dòng máu ở cổ ngừng chảy. Một quả 130 rơi trúng Trung tâm Hành
quân, ngay trước lổ châu mai mà tôi đang quan sát. Điều lạ là đúng lúc quả đạn
này rơi xuống là lúc Trung sĩ Minh – người cận vệ của tôi – bỗng dưng đến trước
mặt tôi, quay lưng vào lô cốt. Sức nổ và mảnh đạn theo lổ châu mai bay vào,
ghim đầy mình. Anh chồm lên ngã chúi vào người tôi dẫy chết. Cũng đúng lúc đó,
một mảnh đạn nữa đâm bổ vào mặt tôi nhanh như một luồng ánh sáng. Trong tốc độ
khủng khiếp ấy, rõ ràng nó đâm vào mắt tôi, nhưng như có một bàn tay vô hình
nào đã đẩy mảnh đạn vào ngay hốc mắt, ghim vào xương sọ ngay trước mũi và tôi
thấy máu mồm máu mũi ộc ra. Trước lúc tôi bất tỉnh, tôi lờ mờ nhận thức được
dòng máu nóng hổi trong thân thể Trung sĩ Minh vẫn tiếp tục chảy ướt đẫm người
tôi. Tôi lịm dần…
Sau này có dịp nghe kể lại, tôi
được biết lúc đó BCH hành quân đang điều động phối hợp lực lượng giải tỏa Tân
Trụ đồng thời phản pháo cho tỉnh lỵ. Riêng Vĩnh Đường, ông đang thị sát trận
địa trên quốc lộ 4 khi VC đống chốt làm gián đoạn cầu Voi. Đây là quốc lộ huyết
mạch tiếp tế chính cho thủ đô Saigon từ miền Tây nên việc gián đoạn này làm ông
điên đầu. Theo trù liệu thì có thể lực lượng của Trung đoàn 14 thuộc SĐ 9 BB sẽ
từ Bến Tranh di chuyển lên xã Hải Yến, Trung đoàn trưởng cương quyết tuyên bố:
"Đêm nay tôi sẽ có mặt ở Phú Lâm".
Được báo tin tôi bị "tróc
sơn", Vĩnh Đường (danh hiệu trên vô tuyến của Đại tá Tiểu khu trưởng) và
31 (danh hiểu của Thiếu tá Trưởng phòng 3 TK) đã tức tốc đổi hướng, cho trực
thăng bay ngay vào vùng với ý định lấy hỏa lực pháo binh áp đảo địch đồng thời
bốc tôi ra khỏi trận địa. Ý định này không thực hiện được vì lưới phòng không
37 ly của địch đan chằng chịt, phi cơ phải bay thật cao và cuối cùng phải về hạ
cánh tại BCH. Mãi tới xẫm tối, nhóm phi công thân hữu và 31 đã lại một lần nữa
xin Vĩnh Đường cho bay vào vùng. Được chấp thuận, 31 đã hướng dẫn phi cơ bay
ngược lên phía Bắc, không bay vòng để lừa địch, rồi dùng hệ thống vô tuyến trên
tầng số riêng dặn dò Tam Sơn phối hợp thật đẹp. Nhào qua lưới đạn phòng không,
chiếc trực thăng đáp "auto" khẩn cấp và bốc được tôi. Vừa lên khỏi
mặt đất là pháo địch rơi ngay bên cạnh. Nhóm phi công và 31, người bạn thân của
tôi đã ôm tôi mà reo lên. Phi cơ bay thẳng về Tổng y viện Cộng Hòa. Lúc đáp
kiểm lại, phi hành đoàn ngạc nhiên là tại sao phi cơ không nổ rớt khi nó bị
trúng đạn nhiều như thế.
Hai mươi hai năm dài, ngồi kể lại chuyện này, tôi vẫn
tưởng như ngày hôm qua. Vinh quang của tôi là xương máu của những người đồng
đội. Sự sống còn của tôi là những sự hy sinh đến mất mạng của những người lính.
Trận đánh cuối cùng của đời tôi để bị loại khỏi vòng chiến chỉ là một giai đoạn
chiến thuật. Thâm tâm tôi vẫn nghĩ rằng tôi phải đánh một trận đánh thực sự
cuối cùng với bọn Việt cộng. Nó thực sự gọi là cuối cùng khi mà bọn bạo quyền
Hà Nội không còn tiếp cai trị nhân dân ta, khi mà quyền căn bản của con người ở
Việt Nam còn bị chà đạp, thì không có trận đánh nào được gọi là trận cuối cùng.
Quốc Thái
SOURCE:
.
No comments:
Post a Comment