Từ Đông Hà, thị trấn cực bắc lãnh thổ miền Nam, Đường số 9 bắt đầu
chạy về hướng Tây qua những vùng đồi Cam Lộ, Hương Hóa, Lao Bảo để cuối cùng đến
Khe Sanh với tiền đồn Làng Vây, sát biên giới Lào-Việt. Qua biên giới, con đường
tiếp tục đi dọc sông Tchépone một đoạn dài khỏang 40 cây số, giao tiếp với đường
Hồ Chí Minh tạo nên vùng hậu cần quan trọng thuộc hệ thống Binh Trạm 604, 611
(lưu ý các phiên hiệu 604; 611- Có nghĩa, cơ sở đã thành hình từ những năm 60,
61- Thời điểm dựng bảng hiệu Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, 19/12/1960) của đường
dây chuyển vận Bắc-Nam, nguồn huyết mạch sinh tử đối với binh đội cộng sản. Thế
nên Bộ Tổng Quân Ủy Miền Bắc quyết chiếm giữ, duy trì vùng tiếp vận quan yếu nầy
bằng mọi giá trong suốt cuộc chiến tranh xâm nhập, lật đổ Miền Nam.
Tổng Công Kích đợt I Mậu Thân đầu năm 1968, miền Nam đã có hơn
19,000 người chết gồm dân và lính (số chính xác là 4,959 quân nhân VNCH tử trận
và 14,300 thường dân thiệt mạng) Và đến năm 1970, toàn bộ sào huyệt hậu cần, từ
chiến khu C, D miền Đông Nam Bộ đến Trung Ương Cục Miền Nam trên đất Miên bị
phá vỡ… Giới chức Mỹ-Việt ước đoán tiềm lực xâm lược miền Nam của phía cộng sản
phải có dấu hiệu đình hoãn, hoặc suy giảm, và chiến dịch đánh qua đất Lào (đầu
năm 1971) được hình thành để thực hiện quan niệm: Cắt đứt đường tiếp vận Bắc –
Nam với tên thường gọi, Đường mòn Hồ Chí Minh. Nhưng không đúng với thực tế, bởi
đã là một hệ thống đường có khả năng để chiến xa hạng nặng di chuyển với ống dẫn
dầu, hệ thống tiếp liệu, tiếp vận quan trọng bố trí dày đặt tại điểm sinh tử
Tchépone để đổi lấy một số thời gian an toàn đủ hoàn thành các đợt rút quân; ký
kết Hiệp Định Paris trên thế lợi, tiếp rút khỏi Đông Dương như ứng cử viên tổng
thống (tháng 10/1968) Nixon đã từng hứa hẹn với cử tri Mỹ.
Sự thật không xẩy ra như ước tính và hy vọng (!), dù với tỷ lệ khả
thể nhỏ nhất. Để yểm trợ cho những mặc cả chính trị tại Hội Nghị Ba-Lê đang đi
vào thời điểm quyết định (mà sau nầy sẽ thấy rõ hơn ở năm 1972), phía Hà Nội lại
chuẩn bị cho lần xâm lược mới qua việc thành lập Quân Đoàn 70B chỉ huy hành
quân ba sư đoàn 304, 308 và 320 – những đơn vị phụ trách toàn vùng Nam Lào, bao
gồm khu Phi Quân Sự, lãnh địa cực Nam của Miền Bắc. Tướng Võ Nguyên Giáp từ
Tháng 10/1970 đã ra chỉ thị cho những đơn vị trên chuẩn bị kế hoạch phản công trường
hợp quân đội miền Nam tiến đánh vùng Nam Lào qua việc thiết lập những vị trí
pháo, khu vực phục kích, những vùng trực thăng (có thể) đổ quân.. Có nghĩa:
Phía Bắc quân đã chuẩn bị kế hoạch phản công từ khi chưa có lệnh Hành Quân Lam
Sơn 719 trước những bốn tháng!
I. Lam Sơn 719, Như thế nào? Để làm gì?
Kế hoạch Hành Quân Lam Sơn 719 được thiết lập vào ngày 8 Tháng 2,
1971, chiến dịch bắt đầu với vùng hậu cần Tchépone là mục tiêu cần phải đánh
chiếm, giữ vững trong một thời hạn đủ để phía cộng sản phải giảm mức tấn công tại
Miền Nam (do thiếu tiếp vận, yểm trợ chuyển đi từ Miền Bắc). Thêm một lần, vùng
địa đầu Quảng Trị “được” chọn lựa làm nơi chốn cho cuộc huyết chiến, giao
tranh. Nhưng cũng không hẳn như trên đã kể, bởi cuộc hành quân nầy tự khởi đầu
được trù định theo yêu cầu chiến lược của phía Mỹ: Chính phủ Mỹ thiết kế chiến
lược và quân Nam là nhân tố thực hiện chiến thuật.
Từ phòng tuyến Khe Sanh, đại quân Miền Nam được tổ chức nên thành
ba lực lượng tấn công chính với ba hướng tiến quân, lấy đường số 9 làm địa giới
trung tâm khu vực trách nhiệm. Giai đoạn thứ nhất của cuộc hành quân khai diễn
đúng ngày 8 tháng 2. Hai Tiểu Đoàn 39, 21 và Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn I Biệt Động;
Tiểu Đoàn 2, 3 Dù và Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn III Dù do Đại Tá Nguyễn Văn Thọ chỉ huy
được trực thăng vận xuống chiếm đóng, thiết lập, trấn giữ những căn cứ hỏa lực
từ bắc xuống nam, tả ngạn sông Tchépone, nơi các cao điểm được đặt tên: Ranger
North (39BĐQ); Ranger South (21BĐQ); Căn cứ hỏa lực 31 (TĐ3ND); Căn cứ hỏa lực
30 (TĐ2ND) để bảo vệ mặt bắc trục tiến quân trung phong trên Đường số 9. Từ căn
cứ Hàm Nghi, đông Khe Sanh, Lữ Đoàn I Thiết Kỵ (đặt thuộc quyền hành quân Bộ Tư
Lệnh SĐ Dù) có Tiểu Đoàn 8 Dù tùng thiết theo đường bộ tiến tới Bản Đông, tên
quân sự: Căn cứ A Lưới, do Tiểu Đoàn 9 và pháo binh Dù thiết lập căn cứ hỏa lực;
Căn cứ Béta (Bravo), hay Bắc Bình do Tiểu Đoàn 1 Dù (sau nầy tăng cường TĐ7
Dù), bộ chỉ huy Lữ Đoàn I Dù chỉ huy tổng quát cánh quân nầỵ
Sư Đoàn I Bộ Binh chịu trách nhiệm cánh quân mặt Nam Đường 9, hữu
ngạn sông Tchépone, trực thăng vận các tiểu đoàn cơ hữu vào vùng, thiết lập các
căn cứ hỏa lực Hotel, Don, Delta và Delta1 để bảo vệ cạnh sườn trục tiến quân
trung tâm mà chủ yếu để nhịp tiến quân của Lữ Đoàn I Thiết Kỵ và Lữ đoàn I Dù đến
đúng mục tiêu Tchépone như đã dự liệụ. Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến làm thành phần
trừ bị ở giai đoạn nầỵ
Tướng Abrams đã thay thế Tướng Westmoreland từ giữa năm 1968, và bắt
đầu áp dụng chiến thuật “Chiếm và Giữ” thay vì “Lùng và Diệt” của Westmoreland.
Với chiến thuật mới, Abrams chỉ cần khai triển những đơn vị tương đối nhỏ
(không tập trung quân vào những chiến dịch lớn với những đại đơn vị, như người
tiền nhiệm) và quan trọng hơn hết là chuẩn bị những đợt rút quân từ tháng 6 năm
1969, với những đơn vị vùng châu thổ sông Cửu Long, nơi được đánh giá là tình
hình an ninh tương đối ỗn định, cụ thể trong Mậu Thân 1968, không có thành phố,
tỉnh lỵ nào bị cộng sản chiếm cứ và gây tác động tổn thất lớn như ở Huế, Sài
Gòn. Ngày 8 tháng 6, 1969 kế hoạch rút 25,000 quân chính thức được công bố với
đơn vị đầu tiên, Sư Đoàn 9 Bộ Binh rời khỏi Căn Cứ Đồng Tâm, Mỹ Tho. Tiếp theo,
29 tháng 9, quân số Mỹ ở Thái Lan rút đi 6000 ngườị Ngày 9 tháng 10, sau nhiều
tính toán đầy kịch tính, Bộ Trưởng Quốc Phòng Melvin Laird công khai trình diễn
màn kịch lớn – Việt Nam Hóa Chiến Tranh – Viên đá tảng của chiến lược Nixon.
Cũng cần nói rõ thêm về yếu tố chính trị đã dẫn đến Hành Quân Lam
Sơn 719. Không phải đến thời điểm 69, 70 nầy, Tổng Thống Mỹ Nixon, người được
Billy Graham đánh giá và mô tả chính xác: “người được chuẩn bị kỹ nhất để làm tổng
thống nước Mỹ” đã phát hiện và xây dựng nên kế hoạch. Nhưng đúng ra từ tháng
10, 1968, đang trong giai đoạn vận động tranh cử, Nixon đã nhận ra “ẩn số” của
vấn đề Việt Nam – Rút quân đội Mỹ khỏi chiến trường – Lời giải phương trình nầy
không do ai xa lạ làm nên, chính tổng thống đảng Dân Chủ, Johnson đã gióng trước
qua Thông Cáo Chung Manila ngày 25 Tháng 10, 1968 (được hoàn thành với nguyên
thủ các nước tham chiến tại Việt Nam gồm Phi, Úc, Đại Hàn, Tân Tây Lan, và Thái
Lan) – Với điều khỏan trụ cột: Quân Mỹ và Đồng Minh sẽ rút hỏi miền Nam Việt
Nam cùng lần quân với Bắc Việt. Hà Nội cũng phải cam kết không xâm nhập, yểm trợ
lực lượng vũ trang giải phóng Miền Nam (?!)
Tuy đánh giá kế hoạch nầy là “không tưởng” với các phụ tá trong
ban tham mưu tổ chức tranh cử, nhưng Nixon, con người với mẫn cảm chính trị
tinh tế cũng đã nhận ra giải pháp thật sự có khả năng thực hiện để giải quyết mối
rối Việt Nam – Cũng là phương cách hữu hiệu và an toàn nhất để “tháo gỡ” mối
liên kết Nga-Hoa, đánh vỡ phần cân bằng cố kết của phe cộng sản trong chiến lược
chính trị thế giớị Việt Nam Hóa Chiến Tranh Đông Dương với sự rút đi của quân lực
Mỹ là bước chiến thuật vô cùng tinh tế lợi hại (lẽ tất nhiên phải chịu những hậu
quả bất lợi cục bộ ban đầu) để tổ chức lại, tái phối trí lực lượng quân sự Mỹ ở
vùng Châu Á-Thái Bình Dương (vấn đề Miền Nam có tồn tại được hay không theo sau
kế hoạch nầy là một chuyện khác). Hành Quân Lam Sơn 719 với xương máu Lính Việt
nơi vùng heo hút Khe Sanh, Tchépone là “nền tảng ban đầu xây dựng nên Trật Tự
Thế Giới Mới” hôm nay, với sự biến mất không cơ hội hồi phục của lực lượng cộng
sản đệ tam. Qua thế kỷ 21, chúng ta có thể nói chắc như thế mà không sợ sai lầm.
Trở lại với chiến trận, bắt đầu từ giai đoạn chuẩn bị lệnh hành
quân đến ngày N của chiến dịch đã có những sự kiện “bất thường” tai hại để sau
nầy biến hành tai họa vô lường đối với các đơn vị tham chiến. Lấy lý do bảo mật,
Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn I, cơ quan chỉ huy tổng quát cuộc hành quân hạn chế tối đa
nhân sự tham dự việc soạn thảo lệnh, chỉ gồm những giới chức cao cấp (Phòng Ba,
Hành Quân và Phòng Hai, Quân Báo), ban tham mưu quân đoàn dưới quyền Trung Tướng
Hoàng Xuân Lãm, có tham dự của Trung Tướng James W. Sutherland, Tư Lệnh Quân
Đoàn XXIV, đơn vị Mỹ trách nhiệm không, pháo yểm và tiếp liệu cho chiến dịch với
hậu cần ở Đông Hà, Ái Tử, Quảng Trị, Đà Nẵng.
Điển hình cho sự hạn chế nầy, Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn Dù, đơn vị giữ
nhiệm vụ nỗ lực chính cuộc hành quân chỉ được thông báo vào “Ngày 2 Tháng Hai –
Một tuần trước khi chiến dịch khai diễn”. Sĩ quan tham mưu, chỉ huy các đơn vị
trực thuộc của sư đoàn Dù ra đến Đông Hà, chuẩn bị vào vùng hành quân mới biết
nhiệm vụ đánh qua đất Lào – Tin tức do dân chúng truyền rao!! Nhưng thực tế, “bảo
mật“ đã là một điều bi hài, sau khi chiến dịch kết thúc, cơ quan CIA tổng kết,
lượng giá kế hoạch, diễn tiến hành quân, đã phát hiện ra điều nguy biến đầu
tiên và chính yếu: Toàn bộ lệnh, phóng đồ hành quân, những căn cứ hỏa lực dự
trù, điểm đổ quân, thậm chí vị trí hỏa tập tiên liệu, lẽ tất nhiên tọa độ phi
pháo yểm (của phía Hoa Kỳ, tùy thuộc vào mức độ thông báo từ phía Mỹ đối với bộ
tư lệnh Quân Đoàn I)… Tất cả tài liệu “bảo mật” nầy đồng được chụp lại, sao y
phó bản từ nơi in ấn lệnh hành quân!!
Cũng không loại bỏ nguồn tin bị thất thoát từ bộ Tổng Tham Mưu ở
Sài Gòn, nơi Phủ Tổng Thống đường Công Lý. Sau 30 Tháng Tư, 1975, những điều tồi
tệ tai họa nầy đã là sự kiện đương nhiên được xác định.
Cũng trong ý hướng bảo mật cuộc hành quân, Bộ Tư Lệnh Quân Đội Mỹ ở
VN- MACV ra lệnh “cấm phổ biến” đối với báo chí, phát ngôn viên quân sự được lệnh
không đề cập đến diễn tiến cuộc hành quân. Nhưng, tất cả đã là một “lầm lẫn vụng
về”, như Kissinger mô tả về việc “cấm vận tin tức”, vì những nguồn tin đã lan
tràn khắp nơi, bắt đầu từ nhiều nguồn mối. Và khi báo lên khuôn ở Hoa Thịnh Đốn
đã có đầy đủ tin tức, kể cả tin về vụ việc “cấm vận”. Cuối cùng, Ngày 4 tháng
Hai, lệnh cấm vô ích nầy được chính thức bãi bỏ. Thật sự, từ Ngày 2, Tháng Hai,
một tuần trước “Ngày N-Ngày Khai Diễn” của chiến dịch, tin tức và lời tố cáo
“hành vi xâm lăng Lào” đã tràn đầy trên trang nhất của báo chí Mỹ cũng như toàn
thế giới.
Dân biểu George Aiken, Tiểu Bang Vermont, dẫu từ dưới thời Johnson
vốn là người yểm trợ chính quyền đối với sách lược thực hiện ở Việt Nam, nhưng
đối với cuộc hành quân lại đặt nên vấn đề với quốc hội “Dân Mỹ có quyền “phải”
được biết về tin tức mà cả thế giới đã biết theo như Tu Chính An Thứ Nhất ấn định..”
Ngày N-8 Tháng 2, 1972 Lệnh Hành Quân Lam Sơn 719 đã là một “bạch
văn” phỗ biến rộng rãi khắp thế giới, chỉ trừ những người lính đổ bộ xuống bãi
đáp đang bị pháo kích, trên Đường Số 9 dày dặt mìn chống chiến xa mà bộ đội cộng
sản đã có một thời gian lâu dài để chuẩn bị chôn dấu. Cuối cùng, tai họa đã thực
sự xẩy ra khi chiếc trực thăng chở phái đoàn báo chí ngoại quốc có Đại Tá Phạm Vy,
Trưởng Phòng 4, kiêm Tham Mưu Phó Tiếp Vận Quân Đoàn bị bắn rơi trong tuần thứ
hai khi chiến dịch đang khai diễn – Toàn bộ hồ sơ trận liệt, diễn tiến hành
quân đã bị phía cộng sản thâu giữ – Sự kiện Lệnh Hành Quân Lam Sơn 719 bị mất
không hề được báo cáo! Thế nên vấn đề “bảo mật” của cuộc hành quân thật sự đã
là một hài kịch thảm hại, và Người Lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà gánh hết phần
hậu quả tai họa oan khốc nầỵ
Đối lại với kế hoạch trên của phía Việt-Mỹ, Đoàn 70B với ba sư
đoàn cơ hữu thuộc vùng giới tuyến và Hạ Lào, 304, 308, và 320; với thành phần yểm
trợ tác chiến gồm một trung đoàn pháo, một trung đoàn chiến xa, quân số tổng cộng
khỏang 36,000 người. Do có được đầu mối từ nhiều nguồn tin mật như phần trên vừa
trình bày, Hà Nội rất mực yên tâm dồn quân vào vùng chỉ để một đơn vị, Trung
Đoàn 64, Sư Đoàn 320 giữ mặt Bắc vùng phi quân sự. Do được bảo mật tối đa, áp dụng
kỹ thuật ngụy trang tinh vi, quân cộng sản bố trí một trận địa pháo dày đặt từ
cối 80, pháo tầm xa 130 ly, hỏa tiển 122 ly theo một chiến thuật mới mẻ, “phân
tán pháo binh-tập trung hỏa lực” để khi muốn tấn công một căn cứ hỏa lực, nhiều
vị trí pháo đổ xuống cùng một lúc, phía quân Miền Nam khó lòng chỉ định mục
tiêu phản pháo.
Song song với trận địa pháo, Bắc quân thiết lập một hệ thống phòng
không chung quanh các bãi đáp, đường tiếp cận của phản lực khi yểm trợ, hoặc của
trực thăng khi đáp xuống một căn cứ, ngoài đại liên phòng không 12ly7 thông thường,
còn có những đại bác phòng không hạng trung và hạng nặng, 23, 37 và 57 ly. Quan
trọng hơn hết là chiến xa T54 lần đầu tiên được dùng vào chiến trường Miền Nam,
loại chiến xa hạng nặng nầy vượt trội khả năng lẫn hỏa lực so với chiến xa M41
thường dùng của quân đội miền Nam, chỉ chiến xa M48 mới có khả năng đương cự
tương đương.
Đối với T54, bộ binh miền Nam với hỏa tiển chống chiến xa M72
không thể triệt hạ được. Thế nên sau nầy, khi trận chiến bùng vỡ, trước T54,
người lính chỉ còn phương tiện duy nhất- Dùng chính thân xác mình với lựu đạn
tay để phá hủy chúng mà thôi.
Với chuẩn bị chiến trường chu đáo, bảo mật tuyệt kỹ, quân số vượt
trội, hỏa lực áp đảo, Bắc quân bắt đầu trận đánh với chiến thuật tập trung tấn
công từng cụm căn cứ hỏa lực theo hướng từ Bắc xuống Nam.
II. Trận chiến
Căn cứ Ranger North của Tiểu Đoàn 39 Biệt Động Quân bị tấn công
trước nhất. Sau nhiều ngày thám sát, dò đường chung quanh căn cứ, sáng ngày 19
tháng Hai, 1971, Trung Đoàn 102, Sư Đoàn 320 (tỉ lệ 4 đánh 1) sau nhiều giờ
pháo kích bằng đại pháo tầm xa 130 ly, đến lượt sơn pháo bắn thẳng che cho bộ
binh tấn công từ mặt đông căn cứ, nơi tuyến phòng thủ mỏng manh nhất. Vơi yểm
trợ hữu hiệu của pháo binh bạn từ những căn cứ xung quanh và phi cơ oanh tạc,
tác xạ sát cận tuyến phòng thủ, Biệt Động Quân giữ vững căn cứ qua ngày thứ
hai, mãi đến đêm tối trận chiến mới tạm chấm dứt.
Tin căn cứ TĐ39 bị đánh bay về Sài Gòn, Tổng Thống Thiệu ra lệnh
Trung Tướng Lãm tạm đình chỉ kế hoạch tiến chiếm Tchepone như trù liệu vơi Lữ
Đoàn I Dù và thiết kỵ?! Nhưng cũng có ý kiến sáng suốt, đấy là Tướng Abrams đã
thúc dục Tham Mưu Trưởng Cao Văn Viên hãy ra lệnh Tướng Lãm đừng để phí thời
gian, lúc cộng sản chưa chuẩn bị đủ. Ngày 14, Abrams quá nóng ruột, đích thân
cùng Tướng Viên ra Đông Hà gặp Tướng Lãm và Sutherland để quan sát tại chỗ và dục
ông Lãm hãy khai triển gấp Sư Đoàn I Bộ Binh trên những cao độ nam Đường 9 để bảo
vệ cạnh sườn cho nhảy dù và thiết kỵ tiến chiếm Tchépone như kế hoạch, dự liệu
trong vòng ba đến năm ngày. Tướng Lãm đã để khỏang thời gian quý giá nầy trôi
qua cho đến ngày 18, 19 như vừa nói trên.
Chẳng hiểu quá vâng lời ông Thiệu hay không đủ tự tin, Tướng Lãm
đình chỉ lực lượng thiết giáp ngưng tiến quân, không có một quyết định, ý kiến
nhỏ về, từ thực tế chiến trường. Hơn thế nữa, mối liên hệ “không cộng tác” giữa
những viên tướng tư lệnh sư đoàn (Tướng Đống, Nhảy Dù; Tướng Khang, TQLC) với
Tướng Lãm lại là yếu tố tai hại ảnh hưởng không nhỏ đến những quyết định quan
trọng tại chiến trường.
SĐ320 cộng sản thay đổi các đơn vị cơ hữu tiếp đánh vùi TĐ39, quyết
dứt điểm Ranger North để có khí thế ban đầu. Ngày 20, trực thăng cố vào vùng để
tản thương và tiếp tế đạn cho TĐ39, xạ thủ phòng không cộng sản bắn hạ một trực
thăng tản thương, y tá Dennis Fujii phải ở lại cùng căn cứ. Trong cái rủi có điều
may, Fujii trở thành y tá của căn cứ kiêm luôn nghiệp vụ hướng dẫn phi cơ oanh
kích cận phòng. Cuối cùng, Fujii cũng được móc ra, nhưng trực thăng chở anh lại
bị trúng đạn phải đáp khẩn cấp xuống Ranger South.
Viên y tá trở nên là nhân chứng sống cho cuộc chiến đấu kiên cường
của Biệt Động Quân, khi sau nầy có những tay viết báo muốn khai thác khía cạnh
bất lợi đối với quân miền Nam. Đã có nhiều lúc, những phi công F4 Phi Đoàn 40
Chiến Thuật nhìn thấy binh sĩ TĐ39 nằm trong màn lửa bom Napalm do họ thả xuống
chung quanh căn cứ. Không được tiếp tế đạn, lính TĐ39 Biệt Động phải xử dụng lại
súng, đạn của kẻ địch để tiếp tục trận chiến. Cuối cùng, chiều tối ngày 21
tháng Hai, sau hơn ba ngày đêm đương cự, với 178 người chết và bị thương nặng,
quân số Tiểu Đoàn 39 chỉ còn 107 người, kể cả bị thương nhẹ có thể chiến đấu;
quân cộng sản xử dụng một lực lượng (không phải gấp ba, bốn lần hơn như những
ngày đầu trận đánh) tới 2,000 người với vũ khí mới trang bị, để thay thế cho
hơn sáu trăm xác bỏ lại lềnh kênh quanh căn cứ (không ảnh đếm được số chính xác
là 639), quyết trả hận biệt động quân.
Nửa đêm, nương bóng tối, TĐ39 phải bỏ căn cứ rút về Ranger South.
Cộng quân không chịu mất đà, dồn nỗ lực pháo cối dập xuống căn cứ Nam (Ranger
South). Để giữ tinh thần chiến đấu cho binh sĩ còn lại và đỡ gánh nặng cho Tiểu
Đoàn 21, một cuộc hành quân không vận với phối hợp chặt chẽ giữa phi cơ chiến
thuật và trực thăng võ trang, 13 trực thăng đã hoàn tất một cuộc tải thương chớp
nhoáng, lấy ra được 112 thương binh kể cả anh chàng “tiền sát viên bất đắc dĩ”
Fujii. Tiểu Đoàn 21 sau khi mất điểm tựa phía Bắc (Ranger North), cùng thành phần
còn lại của TĐ39 rút về Đồi 31 của nhảy dù, sau đó được di tản khỏi vùng hành
quân.
Chiến sử Lam Sơn 719 đoạn đầu với Biệt Động Quân được Tướng
Sutherland đánh giá: “Một chiến thắng lớn của Biệt Động Quân Quân Lực Việt Nam
Cộng Hòa”, cho dù có những bôi bẩn ác ý do đám phóng viên tụ tập tại Khe Sanh
khai thác hình ảnh ăn khách “lính bám càng trực thăng” trở về từ Hạ Lào do một
vài binh sĩ trong cơn hốt hỏang, nhân lần tải thương kể trên đã bỏ trốn khỏi
vùng hành quân. Ngoài ra, có một sự kiện xẩy ra nơi xa nhưng quả thật đã ảnh hưởng
trực tiếp đến chiến trường Hạ Lào – Nếu như Tướng Đỗ Cao Trí không tử nạn máy
bay (đến giờ nầy vẫn còn là một nghi vấn) và ông có mặt tại Khe Sanh trong ngày
23 Tháng Hai – Ngày Biệt Động Quân rời bỏ căn cứ thì có lẽ tình thế Lam Sơn 719
đã đổi khác. Bởi đã hơn một lần, với những đơn vị biệt động như những Tiểu Đoàn
21 và 39 nầy, năm 1970, Tướng Trí đã một lần tạo nên kỳ công ở chiến trường
Campuchia. Lịch sử rất nhiều lần bị biến đổi hẳn do những nguyên nhân rất nhỏ
và bất ngờ. Bi kịch Hạ Lào tiếp diễn với lực lượng nhảy dù nơi Đồi 31 và 30 khi
mặt Bắc hoàn toàn trống trải nguy nan.
Dư luận chính trị thế giới nói chung và riêng nước Mỹ thật không hề
công bằng đối với quân lực Mỹ và Việt Nam Cộng Hòa; không phải những tiếng lời
phát xuất từ số đông quần chúng bình dân hoặc những bài báo độc địa, xuyên tạc
của đám ký giả ngoại quốc hạng nhì, nhâng nháo nơi những quán rượu Sài Gòn;
nhưng khởi động từ những nhân vật có thế lực, ảnh hưởng, tác động đến cục diện
toàn cầu như Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc U Than; Trưởng Khối Đa Số Thượng Viện Mỹ,
Mike Mansfield… Tất cả những nhân vật tiếng tăm nầy đồng dấy lên chiến dịch tố
cáo: “Quân đội Mỹ tấn công chiếm đóng Lào!”, tức hàm ý cáo buộc lực lượng Mỹ của
Tướng W. Sutherland qua hành quân Dewey Canyon, yểm trợ quân đội Miền Nam thực
hiện Lam Sơn 719.
Cần nói thêm một lần để xác định: Bộ binh Mỹ không hề vượt qua
biên giới Việt-Lào ở địa điểm Làng Vây. Lẽ tất nhiên, những lời cáo buộc trên
được lập lại nguyên bản với bộ máy tuyên truyền khổng lồ của Liên Xô, Trung Cộng
và Hà Nội. Cụm từ ngữ “Chiến tranh đế quốc xâm lược Mỹ”dần trở nên là một “thực
thể” của diễn tiến chính trị thế giới – qua báo chí (cũng nơi đất Mỹ) – thúc dục
những đám phản chiến xuống đường kêu gào “hòa bình” và “giết Nixon cùng tất cả
những kẻ nào chận bước tiến (của chúng ta) tới… tự do”. Những lời đao búa nầy của
David Hilliard, thủ lãnh nhóm Báo Đen được Washington Post tán tụng: “… Xuyên
sâu những ngôn từ mạnh mẽ hùng hồn nầy, chúng ta khám phá ra những điều kỳ lạ
và đẹp đẽ biết bao. Họ (những kẻ phản chiến) đã là hỗ trợ cho những điều tốt
lành nhất đối với đất nước!!”.
Tất cả những
cáo buộc sai lạc hàm hồ nầy được thành hình từ đầu Tháng 2, 1971, khi lực lượng
VNCH còn ở trong lãnh thổ Việt Nam. Những kẻ trên hoàn toàn không biết (do ngu
muội) hoặc không muốn biết (do ác ý) sự kiện: “Quân xâm lược thực thụ phải là
đoàn quân có danh hiệu Quân Đoàn 70B của cộng sản Bắc Việt. Để sau 1975 được được
chính Tổng Bí Thư Lê Duẩn hãnh diện xác nhận: Ta đánh Mỹ là đánh cho Trung Quốc,
đánh cho Liên Xô”
Nhắc lại
thêm một lần cũng không không thừa: Binh đoàn quân đội chính quy cộng sản Bắc
Việt đã thành hình và có mặt nơi đất Lào từ năm 1970. Chính phủ Lào ở Vạn Tượng
cũng không nói những gì khác và đúng hơn về những điều gì đang xẩy ra trên đất
nước họ.
Cánh quân
trung phong gồm Lữ Đoàn I Nhảy Dù với các Tiểu Đoàn 1, 8, 9 và Lữ Đoàn I Thiết
Kỵ từ căn cứ Hàm Nghi tiến chiếm những những mục tiêu Bravo, Alpha, A-Lưới trên
Đường 9 không mấy khó khăn dù hướng tiến quân đã bị gài đặt mìn bẩy từ nhiều
ngày qua. Căn cứ tiền phương A Lưới, cách Tchépone khỏang dưới mười dặm được
thiết lập vào buổi chiều ngày 8 đúng như dự định, bộ phận bộ binh Bắc Việt giữ
chốt trên Đường 9 không ngăn nổi sức tiến quân nhanh chóng, thần tốc của nhảy
dù và thiết giáp. Hơn thế nữa những pass B52 đánh theo yêu cầu chiến thuật của
lực lượng dưới đất, dọc hai bên con đường đã hủy diệt phần lớn cánh quân phục
kích nầy. Các đơn vị nhảy dù trên Đường 9 khám phá nhiều kho tàng vũ khí quan
trọng, gồm 3,000 xe đạp mới, cũ, kho nhiên liệu xăng, dầu cặn, áo quần, lương
khô Trung Cộng, Nga lần đầu tiên được xử dụng ở chiến trường miền Nam và hằng
trăm, ngàn xác chết vương vải không toàn thây của những đơn vị Bắc Việt.
Về chiến trường
mặt bắc Đường 9, Tiểu Đoàn 2 và 3 Dù được trực thăng vận xuống hai Đồi 30, 31;
hai căn cứ hỏa lực được thiết lập với chỉ danh của hai cao độ nầỵ Nhưng chiến
trường không hề thuận tiện như những ngày đầu vì Bắc quân đã gióng trước với
lính Dù qua máy truyền tin: “…chúng mầy sẽ biết thế nào là trận địa pháo của
quân giải phóng!” Lời đe dọa không hề là giả thiết và cảnh địa ngục thật sự đã
mở ra.
Chúng ta hãy
chứng kiến một đoạn về trận chiến nơi Đồi 31, căn cứ hỏa lực Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn
III Dù, cũng là vị trí đầu cầu của Tiểu Đoàn 3 Dù, dưới quyền chỉ huy của Trung
Uý Phạm Đồng (tác giả Phan Hội Yên) được lệnh chiếm đóng trong những ngày đầu của
chiến dịch. Viên Trung Úy Trung đội trưởng Trung Đội 2, Đại Đội 33, kể lại
trong tập chuyện “Hạ Sĩ Khinh Binh”:
“Tôi phất
tay cho trung đội đồng loạt ném hết số mìn chiếu sáng về phía trước… Tách!
Tách!…Xoè…xoè… Bốp, bốp… Ngọn lửa bùng lên dữ dội rồi lan nhanh về phía địch
quân; râu tóc mặt mày chúng tôi cũng cháy nám khét lẹt. Thế thượng phong ngàn
năm một thuở… Lửa cuộn trong tiếng quân reo. Lửa tràn lên theo cỏ tranh dòn dã,
khói bốc mịt mù… Khói làm màn che cho quân ta tiến tới. Vùng vẫy trong bão lửa,
quân xông lên.
Lưỡi lửa liếm
một vòng cung, thắt gọn vị trí địch trong vùng hỏa công dữ dội. Những căn hầm
được nguỵ trang kỹ lưỡng bằng cỏ tranh tiệp màu bỗng chốc trở thành mồi ngon
cho ngọn lửa. Hầm đạn nổ tung tóa, cả vùng đồi nhanh chóng ngập tràn biển lửa.
Địch quýnh quáng tung hầm tháo chạy, có kẻ trên lưng đang bốc khói.
Tổ khinh
binh tràn lên đỉnh đồi chiếm lĩnh trận địa, thanh toán nhanh những ổ kháng cự yếu
ớt còn sót lại.. Làm sao có thể chống cự được, khi trước mặt là lửa táp, khói
thốc theo luồng gió lùa vào mồm, mũi… Chưa kịp dụi mắt, ngáp gió, lấy hơi, quân
ta đã tiến tới, lưới đạn càn quét, quyết liệt… Trong ráng chiều chưa tắt, nắng
xuyên qua khói, lửa giải xuống chiến trường những giải vàng lóng lánh, thấp
toáng bóng quân chạy dọc ngang trên đỉnh đồi như phút giây linh thiêng hào hùng
sông núi chuyển mình…”
Sau khi
trung đội của Trung Úy Phạm Đồng đã chiếm lĩnh được mục tiêu với lần mất đi
sinh mạng những chiến hữu thiết thân, những khinh binh Chí, đề-lô pháo binh
Tâm, và chỉ dấu thua thiệt lớn nhất: Đại Uý Lê Thành Bôn, đại đội trưởng, tác
giả của trận đánh hỏa công của đoạn viết kể trên. Đồi 31 trở nên cảnh chết tàn
khốc vào ngày 25 tháng Hai: “Sau trận tập trung pháo kích, xe tăng địch lập tức
ào ạt xung phong… Hai, ba, năm… bảy, tất cả mười một chiếc bỏ lại bộ binh (của
phía Bắc quân), cùng lao xuống đồi về phía chúng tôi. Một chiếc đang bò ngang
chông chênh trên sườn đồi lãnh ngay một trái 105 trực xạ, hất nhào xuống vực thẳm.
Nhưng đoàn xe tăng vẫn tiếp tục vừa bắn vừa tiến và chiếm dần bãi trực thăng.
Hạ sĩ nhất
Chính và tiểu đội khinh binh lãnh nhiệm vụ đón đánh đợt đầu khi tăng tiến qua
bãi đáp, tiến vào yên ngựa hẹp (giữa hai đỉnh đồi) trước khi bám đánh khu vực
phòng thủ trung tâm căn cứ. Chính dẫn theo Bình, Tám, Ngôn, mỗi người thủ sẵn một
cây M 72 (hỏa tiễn chống chiến xa) đã ở vị trí chờ kích hỏa; Chuẫn úy Nghĩa,
trung đội phó, đòi đi theo tổ khinh binh; mắt anh hừng hực uất hận bởi thấm đau
từ lần đụng trận đầu tiên của đời lính, đã hiểu nghĩa tận cùng cào xé trước xác
thân đồng đội.
Mỗi
người chúng tôi quả có tâm lý của kẻ không đường trở lại, phải tiến lên phía
trước, vượt qua hèn mọn của chính mình… Mất đi ý niệm phân biệt sống, chết. Mà
có khi phải chết còn thanh thản hơn được sống!! Hai chiếc tăng ùn ùn tiến vào
khu vực trung tâm, Nghĩa nhảy phắc lên chiếc thứ hai, thảy gọn trái M26 vào
lòng pháo tháp. Anh chưa kịp nhảy xuống thì trúng đạn, nằm chồng lên xác địch
thủ. Cùng lúc, có tiếng nổ “bục” tức tối, khói từ trong chiếc tăng bốc lên…
Nhưng sao nó vẫn tiếp tục chạy! Quờ quạng được một đoạn ngắn, chiếc chiến xa nổ
tan làm hai mảnh, pháo tháp bật ngược ra sau cùng xác Nghĩa.
Và
trận đánh kết thúc với cảnh tượng vô vàn bi tráng mà phải là người trong cuộc
mới có thể viết nên với những giòng đẫm máu như sau:
“… Ba
phần tư ngọn đồi đã nằm trong tay địch, chúng tôi (Đại đội 31 và 33) chỉ còn
giữ được một phần bộ chỉ huy tiểu đoàn và lữ đoàn, nhưng không còn ai trong
những vị trí hầm chỉ huy cả, tất cả đã ra ngoài, sát vai tác chiến cùng khinh
binh, xạ thủ nơi tuyến đầu; hệ thống truyền tin chỉ huy vẫn được duy trì ở cấp
trung đội, dù trên thực tế, mỗi trung đội còn không quá mười người…
Tất cả
khái niệm sống, chết đã trở thành vô nghĩa. Và cũng không còn thì giờ hoàn cảnh
để chọn lựa. Những người lính còn lại của lữ đoàn đồng hăm hở lao lên trong cố
gắng tuyệt vọng… Bắn… bắn, thụt thêm một trái M72 đi. Lựu đạn… lựu đạn… Những
bóng áo rằn rì nhảy lên pháo tháp xe tăng địch, những thân người vùng vẫy cào
cấu, lắt lẻo trên thành xe, tan nát dười lườn xích sắt. Bây giờ bộ binh địch đã
phối hợp cùng chiến xa, tràn lên căn cứ… Mặt đối mặt với lưỡi lê, báng súng,
lăn xả vào nhau, bắn giết, đâm chém… Hoặc loay hoay với những khối sắt không
làm sao phá vỡ với tay trần, với vũ khí cá nhân.
Bom
bầy, pháo lũ dội xuống… Bom của ta, pháo của địch, lưới lửa của cả hai bên đồng
chụp xuống một chỗ, lính hai bên cùng chia nhau lãnh đạn… Những chiếc nón sắt
rơi lông lốc, những đôi dép râu đứt quai nhầy nhụa trong dòng nước đỏ ối, đậm
đặc đang dần kết thành giải suối máu lăn lóc chảy chậm xuống sườn đồi!!
Cuối
cùng, hai Đại Đội 33, 34/TĐ3ND không thể nào giữ được Căn Cứ Hỏa Lực Đồi 31 do
quân Bắc Việt tập trung toàn bộ lực lượng bộ binh của mặt Bắc Đường 9 được pháo
130 ly yểm trợ, chiến xa T54 dẫn đầu… Những chiến xa hạng nặng nầy cày vỡ tất
cả công sự chiến đấu của Đồi 31, đè sập hầm chỉ huy của Lữ Đoàn III nên Đại Tá
Thọ đã yêu cầu pháo binh nhảy dù bắn tiêu hủy ngay trên vị trí phòng thủ. Trung
Tá William. N. Peachey, Tiểu Đoàn Trưởng TĐ158/Không Vận Mỹ từ trên chứng kiến
những giây phút bi thảm cuối cùng của Đồi 31. Đến một lúc, lính Bắc Việt không
cần phải nổ súng bởi những chiếc T54 chỉ việc đè lên những người lính nhảy dù
trấn giữ đồi 31.
Cuối
cùng, toàn bộ sĩ quan Lữ Đoàn III, Tiểu Đoàn 3 Dù, Tiểu Đoàn 3 Pháo Binh gồm
Đại Tá Nguyễn Văn Thọ, Trung Tá Trần Văn Châu, Thiếu Tá Trần Văn Đức, Đại Úy Lê
Đình Châu và nhiều sĩ quan trung cấp, hạ sĩ quan, binh sĩ bị bắt sống, phần
đông đã bị thương, mất năng lực chiến đấu, hết đạn, vũ khí không còn xử dụng
vào những ngày trước khi căn cứ bị tràn ngập.
Lực
lượng nhảy dù quả đã hẳn ưu thế chiến đấu khi bị bó chặt nhiệm vụ trên những
cao độ không còn được yểm trợ liên hoàn, do để trống mặt Bắc khi các Tiểu Đoàn
Biệt Động 21, 39 phải rời bỏ căn cứ như đã trình bày ở đoạn trên. Sự kiện mất
căn cứ Đồi 31 cũng có nguyên do là đoàn chiến xa M 41 thuộc Thiết Đoàn 17 Lữ
Đoàn 1 Thiết Kỵ có hai đại đội Tiểu Đoàn 8 Dù từ căn cứ A Lưới được lệnh di
chuyển tăng cường cho Đồi 31 đã không đến kịp điểm hẹn. Toán quân nầy lại bị
phục kích vào ngày sau khi trên đường tiến gần mục tiêu, cuối cùng nhờ B52 đã
can thiệp hiệu quả bằng cách dội bom tiếp cận đội hình tiến quân, phá vỡ trận
địa phục kích của Bắc quân. Sau hai pass B52, chiến trường hoàn toàn yên lặng,
người sống sót nằm ngất trên mặt đất bị đào xới tung tóe lầy nhầy thịt xương
người của các đơn vị bộ đội thuộc Sư Đoàn 320. Tổng số 800 xác chết là số lượng
đếm được về đơn vị cộng sản bị giết bởi B52.
Căn cứ
Đồi 31 thất thủ, Đồi 30 do Tiểu Đoàn 2 Dù trấn giữ còn lại trơ trọi suốt một
vùng mặt Bắc Đường 9, và biến thành điểm lửa của toàn bộ hệ thống hỏa tập Bắc
quân. Nhưng kỳ diệu thay, do bản lĩnh riêng của viên tiểu đoàn phó và sĩ quan
hành quân, Thiếu Tá Nguyễn Văn Mạnh, Đại Úy Trần Công Hạnh, tiểu đoàn đã cầm cự
được suốt một tuần sau và chỉ rời bỏ căn cứ khi Hotel (danh hiệu truyền tin của
Đại Úy Hạnh) trực tiếp liên lạc với phi hành đoàn của các phi cơ yểm trợ chiến
thuật và trực thăng Mỹ để tác xạ trực tiếp và dội bom lên ngay tuyến phòng thủ
đơn vị…
Nương
theo khe hở sống chết nầy, Tiểu Đoàn 2 rút khỏi vòng vây với quân số chỉ bị tổn
thất tương đối. Hơn thế nữa, đơn vị nầy trên hướng di tản khỏi căn cứ còn mở
đường cứu vây Tiểu Đoàn 7, đơn vị vào tăng cường cho TĐ1 và TĐ 8, hai tiểu đoàn
nầy cũng đã bị tổn thất nặng trong tuần lễ cố giải vây cho Lữ Đoàn III Dù ở đồi
31 (Tiểu Đoàn Trưởng Nguyễn Văn Phan tử trận; hai tiểu đoàn phó, Trần Đăng
Khôi, TĐ7; Đào Thiện Tuyển, TĐ8 bị thương nặng, phải di chuyển khỏi vùng hành
quân). Cuối cùng, lệnh tiến chiếm Tchépone như dự trù với lực lượng nhảy dù và
thiết kỵ trên đường 9 không hề được thi hành. Lời thúc dục, khuyến cáo của
Tướng Cao Văn Viên, Abrams với Tướng Lãm tại Đông Hà ngày 16 tháng Hai về việc
thực hiện quan niệm hành quân trên đã không hề được quan tâm. Nghi án sự chậm
trễ và thay đổi kế hoạch điều động các đơn vị đến nay vẫn còn là một ẩn số chưa
có lời giải thích thỏa đáng.
III.
Tchépone, Chiếc bẫy sập đóng lại
Khi
lực lượng nhảy dù và thiết kỵ bị cầm chân ở A-Lưới thì việc tiếp tục tiến chiếm
Tchépone với bộ binh chỉ còn là một “mục tiêu bề mặt”, cốt để biện hộ một cách
tai hại về một ước tính quân sự sai lầm, nhằm mục đích yểm trợ cho một sách
lược chính trị. Sách lược ấy được nhận ra, khi Toà Đại Sứ Mỹ ở Sài Gòn báo cáo
về Hoa Thịnh Đốn một nội dung khả thể, đêm 7 tháng 4 Tổng Thống Nixon có thể
nói cùng dân chúng Mỹ: “Đêm nay tôi có thể báo cáo rằng chính sách Việt Nam Hóa
đã thành công!!”, nhằm trấn an những nhóm biểu tình phản chiến, đòi cải thiện
chế độ an sinh xã hội cho người da đen ở các tiểu bang miền Nam nước Mỹ.
Ngày 3
tháng Ba, hai Lữ Đoàn A, B Thủy Quân Lục Chiến từ Khe Sanh được đưa vào thay
thế các đơn vị Sư Đoàn I Bộ Binh thuộc vùng trách nhiệm hai căn cứ Delta và
Hotel. Như thế, mặt trận Hạ Lào chỉ còn một lữ đoàn TQLC làm thành phần trừ bị;
cũng có nghĩa tương tự đối với toàn bộ lực lượng quân sự miền Nam. Những tiểu
đoàn bộ binh thuộc Sư Đoàn I rời bỏ vùng vừa bàn giao, tiến sâu về phía Tây,
lập các căn cứ hỏa lực Sophia, Liz và LoLo trên các cao độ 748, 690, và 723,
Đông-Nam mục tiêu Tchepone. Lolo thực sự chỉ là một bãi đáp chứ không hẳn là
một căn cứ hỏa lực.
Ngày 6
tháng Ba, một phi đội khổng lồ gồm 120 trực thăng Huey được trực thăng võ trang
Cobra và phản lực chiến đấu yểm trợ bao vùng đổ quân bộ xuống bãi đáp Hope, bốn
cây số Đông-Bắc Tchépone, sau khi B52 đã trải thảm dọn sạch khu rừng rậm hằng
trăm năm không dấu vết người chung quanh bãi đáp. Cuộc không vận được xếp hạng
là một trong những hành quân đường không lớn nhất chiến sử Đông Dương; năm
1954, lực lượng không quân vùng Tây-Bắc của Tướng Cogny chỉ có đúng hai trực
thăng Alouette cho Chiến Dịch Castor để chiếm đóng Điện Biên Phủ.
Cuộc
không vận đưa Tiểu Đoàn 4/Trung Đoàn 1 và Tiểu Đoàn 2/Trung Đoàn 2 vào vùng lửa
Tchépone, đây là hai đơn vị ưu tú nhất của Sư Đoàn I do Trung Tá Lê Huấn và
Trung Tá Trần Ngọc Huế chỉ huy; cả hai cùng Khoá 18 Trường Võ Bị Đà Lạt và được
đánh giá là những sĩ quan xuất sắc của khoá. Nhưng dù hai tiểu đoàn trên có gồm
những người lính can trường, được chỉ huy bởi những sĩ quan xuất chúng bao
nhiêu, cứ điểm Hope mà hai đơn vị có nhiệm vụ đổ bộ xuống để rồi sau đó làm đầu
cầu đột kích trong im lặng tuyệt đối vào “thị trấn Tchepone” đã là một nơi
hoang vắng với những thây chết rải rác cũng có nghĩa “Kế Không Thành” mà Bắc
quân giương ra đã hoàn tất.
Toàn
bộ các bãi đáp, địa điểm nầy đã là những “điểm hỏa tập tiên liệu“ của pháo,
cối, hỏa tiễn diện địa của bộ đội cộng sản. Kết quả bi thảm đương nhiên xẩy
đến, Tiểu Đoàn Trưởng Lê Huấn tử trận, Trần Ngọc Huế bị bắt sống… Hai tiểu đoàn
tan vỡ như những mảnh vụn của những khẩu pháo 105 thả xuống ở các căn cứ Hope,
Sophia, Liz… Có những khẩu chưa hề bắn được một viên đạn, vì những lưới đạn quả
thật chưa hề được thả xuống kịp trước khi các căn cứ tan vỡ. Ông Thiệu ra lệnh
“rút quân” sau “chiến thắng Tchepone”, bất chấp lời khuyến cáo từ phía Tướng
Abrams – Tăng cường Sư Đoàn 2 Bộ Binh cho mặt trận Hạ Lào và giữ chặt nút chận
Tchépone để hoàn thành mục tiêu chiến lược – Cắt đứt đường tiếp vận Bắc-Nam của
quân đội cộng sản.
Cuộc
rút quân không chuẩn bị tất nhiên biến thành lần tháo chạy, khi các căn cứ lần
lượt bị đánh vỡ, mất hẳn thế “yểm trợ liên hoàn – viên đá tảng cột trụ của
chiến thuật Căn Cứ Hỏa Lực”. Sau Sư Đoàn Nhảy Dù của giai đoạn đầu, Sư Đoàn 1
Bộ Binh ở giai đoạn hai, tiếp theo, đến lượt Sư Đoàn TQLC chịu lần phanh thây
trên những đỉnh núi trần trụi dưới cơn mưa lũ đại pháo của Bắc quân được chuẩn
bị từ một năm trước, năm 1970.
Lực
lượng Thủy Quân Lục Chiến nhận vùng trách nhiệm, bố trí các tiểu đoàn theo
hướng Bắc-Nam. Tiểu Đoàn 4, 7, Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn A có pháo binh Tiểu Đoàn 2
Pháo yểm trợ. Căn cứ hỏa lực chính được Tiểu Đoàn 2 “Trâu Điên” bảo vệ, đồng
thời làm thành phần trừ bị. Phía Nam, Lữ Đoàn A, hai tiểu đoàn 3, 8, có nhiệm
vụ phá thế trận cộng sản bao vây, chia cắt. Nhưng tất cả phối trí chiến thuật
nầy đã trở nên bất khả dụng, bởi phe cộng sản đã chuẩn bị đủ cho chiến trường,
từ quốc tế đến quốc nội, với biểu ngữ của đám biểu tình phản chiến ở Mỹ đến
Dinh Độc Lập ở Sài Gòn.
Cụ thể
nơi mặt trận Hạ Lào, quân cộng sản đã bắn không trật một viên đạn ra ngoài các
căn cứ hỏa lực. Và sau khi các căn cứ nhảy dù ở mặt Bắc bị tràn ngập; Sư Đoàn I
Bộ Binh phải rút bỏ sau cái gọi là “chiến thắng chiếm đóng Tchépone”; vùng
trách nhiệm của TQLC gánh khối nặng còn lại của trận chiến vô lý bi thảm nầỵ.
Lữ đoàn A TQLC với Tiểu Đoàn 2 “Trâu Điên” của Tiểu Đoàn Trưởng, “Robert Lửa”
Nguyễn Xuân Phúc trở nên thành tụ điểm tất cả nguồn lửa lớn của chiến trường.
Tiểu
Đoàn Trưởng Nguyễn Xuân Phúc nói với Đạt, chỉ huy trưởng pháo binh, đơn vị pháo
còn lại duy nhất của trận địa: “Ông khỏi yểm trợ cho ai nữa, hạ nòng súng
xuống, “cua” nó lên con nào, ông nướng con ấy cho tôi”.
“Cua”,
Phúc dùng chữ với ý khinh miệt hơn nghĩa khối hài để nói về những chiến xa của
Bắc quân. Và đến lúc cuối cùng, Phúc hét lớn qua máy truyền tin: ”Khỏi cần hỏi
lệnh tôi, còn bao nhiêu đạn ông cứ chơi hết bấy nhiêu…” Hai Tiểu Đoàn 4 và 7 ở
vùng ngoài căn cứ vùng vẫy tuyệt vọng giữa đám kẻ thù say máu như con hổ trọng
thương bị loài kên-kên rúc rỉa. Phúc hướng dẫn từng phi tuần từ hạm đội bay vào
cứu bạn. Những viên phi công Mỹ dần quen với giọng nói của “Foxtro” (ám danh
đàm thoại không-lục của Phúc với phi công Hạm Đội 7), để đến một đêm…
Đêm hỏa
ngục lật ngược để bày ra trên trần gian nguồn lửa lênh láng hung tàn không hề
cạn. Lửa rùng rùng lay động suốt dãy núi rừng ầm vang tiếng nổ. Tiếng nổ của
đại pháo, hỏa tiễn bắn từng đợt, từng tràng một lần mười, hai mươi trái, từ
bốn, năm vị trí. Trong chuỗi âm động quái dị ấy, súng tay dì đẹt nhỏ nhoi như
một loại pháo lép và cuối cùng với những đợt bom. Bom ném một lượt từ ba phi
tuần phản lực nối cánh nhau như cảnh tượng trong các phim chiến tranh. Phi cơ
Mỹ bao vùng suốt từ sáng sớm, Đà Nẵng, Thái Lan, Hạm Đội 7, Guam qua chiều vào
đêm, bay đến…
Đêm
đến, Bắc quân từ hang ổ, đường thông thủy, giao thông hào, điạ đạo theo xe tăng
tấn công lên đồi tiêu diệt Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn A, Tiểu Đoàn 2 Pháo qua hàng rào
phòng thủ của “Trâu Điên”. Và Tiểu Đoàn 2 TQLC quả thật là một con trâu điên
đơn độc đương cự giữa bầy sài lang nanh vuốt. Phúc đã theo dõi và thấm hiểu nổi
đau những lần thất thủ của các đơn vị bạn, những Tiểu Đoàn 37 Biệt Động, Tiểu
Đoàn 2, 3, Lữ Đoàn III Dù… Hai tiểu đoàn 4, 7/TQLC ngoài căn cứ chỉ còn một
đường liên lạc qua hệ thống truyền tin của Tiểu Đoàn 2. Phúc hướng dẫn phi cơ
Mỹ thả trái sáng để hai đơn vị nầy lần đường về phía Nam, nơi các tiểu đoàn 3
và 8 đang đợi “bắt tay”. Bộ chỉ huy lữ đoàn hoàn toàn tê liệt, pháo binh cũng
chỉ còn những viên đạn cuối cùng, Đạt báo cáo với Phúc… “Tuị nó tràn ngập vị
trí, tôi phá súng!!”
Và
cuộc hỗn chiến trong đêm bắt đầu. Tiếng súng lớn đồng im bặt, tiếng súng nhỏ
cũng không còn, chỉ âm động của da thịt người bị xé rách, đâm nát, vỡ nhầy dưới
xích xe tăng. Trong bóng tối chập chờn tàn lửa, nghi ngút khói của những trận
pháo càn từ bao ngày qua, từ giờ trước…Những bóng người nhào vào nhau, tìm
đường chạy hoặc cách giết người hiệu quả để được lần sống sót. Phúc hằng tiên
liệu rõ tình huống tuyệt vọng gớm ghê nầy, nên anh đã ra lệnh cho toàn đơn vị
“tay áo phải xắn cao, tay áo trái thả dài xuống”, làm dấu hiệu nhận bạn giữa
đêm tối, vượt nỗi chết. Và từ vũng sâu cảnh điạ ngục trần gian kia, người ta
nghe rõ tiếng hét lớn lập lại nhiều lần… “I’m crazy buffalo battalion
commander, đ..m.. .tao ground chief… go ahead, do it please…”
Bầu
trời, mặt đất cùng bị vỡ tung, những quả bom chạm nổ ngay khi vừa rời khỏi cánh
tàu bay. Phúc nương theo đợt dội bom, hứng đủ trận bom, bảo vệ bộ chỉ huy lữ
đoàn, tiểu đoàn 2 pháo và đơn vị rút khỏi căn cứ. Trong bản ghi dữ kiện của máy
bay, toạ độ Phúc yêu cầu dợi bom cũng là toạ độ của Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn A TQLC
mà Hạm Đội 7 đã yểm trợ từ bao ngày qua.
Bốn
giờ sáng, Phán, Tiểu Đoàn Trưởng TĐ8 TQLC từ trên đỉnh ngọn Cô-rốc, đỉnh núi
cao nhất vùng, nhìn suốt hai bên sường Đông, Tây Trường Sơn, lắng nghe tiếng
nói khẽ, đứt khúc của Phúc… “mầy… mầy thắp đèn cầy (trái sáng), tao dẫn tụi
thằng 4, 7 và con cái tao về…”.
Chín
giờ sáng hôm sau, Phán xuống núi, Phúc đang dìu Đại Tá Thông bước chập choạng.
Giữa đám quân tan tác, Phúc là người nhỏ, thấp, gầy nhất. Nhưng quả tình anh là
người cao, bền hơn hẳn. Như Người Lính không hề chết. Và nếu họ có mất đi hình
hài cũng chỉ để Tổ Quốc hằng muôn thuở tồn sinh.
Tổng
kết trận Hạ Lào, Trung Tá Pháo Binh Nhảy Dù Bùi Đức Lạc nhận xét: “Máu của Người
Lính đã đổ xuống Hạ Lào, thịt xương họ không vun trồng màu mỡ quê mẹ mà làm
tươi tốt cho đồng, rừng xứ người. Nhưng đau thấm thía, lâu dài hơn khi trận Hạ
Lào bị cơ quan truyền thông ngoại quốc che mờ bằng màn khói bại trận, lại được
tô son chuốc lục bởi phóng viên người Việt với màu tang trắng quê hương…”
Hậu Từ
Hôm nay, kể từ buổi binh đao tàn khốc kia, Thắng, Bại; Công, Tội của những bên lâm chiến đã được lịch sử chứng minh. Chỉ riêng Người Lính – Những Người Lính không trở về – Những Người Lính sống sót cùng Nỗi Đau không hề chấm dứt với khổ nạn Quê Hương. Đại Tá Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù Nguyễn Văn Thọ là một trong những người lính phẫn hận kia.
Sau
lần sống sót dưới cơn bão dữ đạn bom của cả hai phía, Đại Tá Nguyễn Văn Thọ,
Trung Tá Trần Văn Châu, Thiếu Tá Trần Văn Đức, các Đại Úy Lê Đình Châu, Nguyễn
Văn Thương, Nguyễn Quốc Trụ… thuộc bộ chỉ huy Lữ Đoàn 3, Tiểu Đoàn 3 Pháo Binh
ND được lệnh di chuyển ra Bắc với chân trần, trên thân người vết thương còn
tươi máu. Tại Hà Nội, họ được đưa ra trình diện báo chí (của miền Bắc và khối
cộng sản) để làm cớ chứng: Quân đội Mỹ-Ngụy tấn công lãnh thổ của nước Lào (gọi
là) trung lập. Đồng thời viên cán bộ chính trị cao cấp điều hành buổi họp báo
cũng lên tiếng: “Cực lực bác bỏ lời tố cáo của báo chí miền Nam: “Cộng sản Bắc
Việt xâm lăng miền Nam qua ngã Lào (!!)” Đài phát thanh Hà Nội lớn tiếng rêu
rao: “Trận chiến Đường 9 Nam Lào là một đòn sấm sét của lực lượng nhân dân yêu
chuộng hòa bình của ba nước nước Đông Dương đã đoàn kết chiến đấu, đập tan âm mưu
của tập đoàn thực dân mới Mỹ nhằm mưu định chiếm đóng Đông Dương mà ngụy quyền
Sài Gòn là tay sai đắc lực nhất.”
Lời
cáo buộc được cả thế giới “tin cậy” nên từ Hội Nghị Paris (1968-1973) trở về Hà
Nội, bí thư Xuân Thủy được Đức Giáo Hoàng Paul VI tiếp kiến do những nổ lực gọi
là “tái lập hòa bình ở VN” của y ta đại diện cho Hà Nội tại bàn hội nghị. Chưa
hết, thế giới lại “rất sáng suốt” trao giải Nobel (gọi là) Hòa Bình cho Lê Đức
Thọ. Đây cũng là viên bí thư chiến dịch Hồ Chí Minh lần tiến chiếm Sàigòn (4/1975)
với 16 sư đoàn bộ binh cộng sản Bắc Việt như lời than vãn của Kissinger, kẻ
đồng nhận giải Nobel Hòa Bình với Thọ.
Trong
chiều hướng “tin cậy đối với cộng sản Bắc Việt”, Hiệp Định Ba Lê ký kết ngày 27
Tháng 1, 1973 đã long trọng xác nhận “Hai bên miền Nam Việt Nam trao trả cho
nhau những nhân viên quân sự được bắt giữ… ” Với định nghĩa nầy, toàn bộ các sư
đoàn bộ binh, khối lượng vũ khí khổng lồ gồm xe chiến xa, đại pháo của cộng sản
miền Bắc nơi mặt trận Hạ Lào đồng được “hóa không” để trở thành “quân đội giải
phóng Lào yêu nước” hoặc của “lực lượng vũ trang giải phóng Miền Nam”! Và hệ
quả tiếp theo là: “Không có tù binh VNCH nào của mặt trận Đường 9 Nam Lào trong
danh sách trao trả theo Nghị Định Thư về Tù Binh của Hiệp Định Paris 1973.”
Văn
bản được long trọng ký kết trước cộng đồng thế giới, được 13 nước ký Định Ước
Bảo Đảm Thi Hành bao gồm Liên Xô, Trung Cộng! Màn dối gạt ngang ngược vô liêm
sĩ đối với thế giới tiếp tục hiện thực trong Ngày 30 Tháng 4, 1975 với sự đồng
thuận của chính phủ Mỹ. Cuối cùng, chỉ một năm sau, 1976, nhóm người tù miền
Nam trong một buổi đi ra Đoàn (Đoàn 776) ở Yên Bái để lãnh gạo. Chúng tôi nhận
ra người tù Hạ Lào: Đại Tá Nguyễn Văn Thọ, Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù,
Trung Tá Trần Ngọc Huế, Tiểu Đoàn Trưởng TĐ2/2/SĐ1BB và nhiều anh em tù binh
khác thuộc các binh chủng TQLC, BĐQ, BB, Thiết Kỵ, đông đảo nhất là những Biệt
Kích Quân, tổng số của những tù binh VNCH rơi ra ngoài danh sách trao trả theo
Hiệp Định Paris. Đại Tá Thọ giữ nhiệm vụ chăn nuôi, Trung Tá Huế dầm suối
chuyển cây gỗ… Chúng tôi đứng nghiêm chào kính: Chào Đại Tá! Ông trầm giọng
buồn phiền: Các em cố gắng nghe! Vâng, tụi em cố gắng!
Năm
1996, người viết qua Úc, nói chuyện ở Sidney, gặp lại Người Lính Nhảy Dù không
mệt mõi, đến góp tiếng với “thằng em”. Tôi khám phá ra một điều cao thượng bất
biến: Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 8; Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 3 ND; Tù Binh Hạ
Lào; Người già tỵ nạn nơi đất Úc… Tất cả luôn ở trong một tình trạng “cố gắng”.
Nhảy
Dù Cố Gắng! Đích Thân về cõi Phật bình an (*).
(*)
Đích thân: Người Chỉ Huy – Ám danh đàm thoại của các đơn vị tác chiến nhảy dù.
Thiếu
Úy Phan Nhật Nam
Tiểu
Đoàn 7 Nhảy Dù, KBC 4919
SOURCE:
http://www.nguoivietdallas.com/lnh-d-vnch-un-khc-chin-dch-lam-sn-719-ng-9-nam-lo
.
No comments:
Post a Comment