Mỗi
năm trong cuộc chiến Việt Nam đều đáng nhớ cả, vì mỗi năm gồm 365 ngày đó máu
của thanh niên Việt cả hai miền Nam – Bắc đổ ra từng ngày. Nhưng năm 1972 có lẽ
là năm được nhớ đến nhiều hơn hết vì có trận “Mùa Hè Đỏ Lửa” miền Trung mà máu
người Việt hai miền đã đổ ở mức độ khủng khiếp. Tuy nhiên năm 1972 không chỉ
khủng khiếp với “Mùa Hè Đỏ Lửa” vì vào Mùa Xuân năm ấy thì khủng khiếp đã xảy
ra trước rồi, ở Kampong Trach trên đất Miên.
Hai
lực lượng quân sự Việt Nam, Việt Cộng Hòa và Việt Cộng Sản. Một bên quyết giữ
cho vùng IV của Việt Nam Cộng Hòa yên ổn. Một bên quyết mượn đất Miên xâm nhập
vào vùng IV phá rối trị an cho bằng được trước khi họ khởi đánh trận “Mùa Hè Đỏ
Lửa” ở miền Trung. Trung tướng Ngô Quang Trưởng, Tư lệnh Quân đoàn IV và Quân
khu IV, quyết tâm chận đứng âm mưu này.
Trận
Kampong Trach là câu trả lời chung cho cả hai bên!
Theo BĐQ Đỗ Như Quyên, dựa vào quân sử Việt Cộng, lực lượng chính của Việt Cộng tham dự trận Kampong Trach là Công trường 1 gồm Trung đoàn 88, Trung đoàn 95A, Trung đoàn 101D, Trung đoàn 40 Pháo binh, Đoàn 200 Hậu cần, và được tăng phái thêm một trung đoàn của Công trường 9, chưa kể các đơn vị pháo binh, đặc công, vv … (Đỗ Như Quyên cho biết các sư đoàn Việt Cộng thành lập ở miền Nam đều được ngụy danh là Công trường cho có vẻ … phi quân sự). Công trường 1 Việt Cộng được thành lập năm 1965 ở rừng núi phía Tây thành phố Huế, năm 1968 bị quân Việt Cộng Hòa đánh thiệt hại nặng phải di chuyển vào Kontum, qua năm 1969 bị thêm một vố nặng nữa bèn được cho qua Takeo, đất Miên, đặc trách lòn quân qua biên giới quấy phá vùng IV Việt Nam Cộng Hòa.
Phía lực lượng Việt Nam Cộng Hòa ban đầu là Liên đoàn 42 Chiến thuật Biệt Động Quân
với ba Tiểu đoàn 66 – 93 – 94 chỉ huy bởi Trung tá Trần Kim Đại được tăng phái
thêm một Chi đoàn Thiết Giáp thuộc Thiết đoàn 12 Kỵ Binh.
Theo các tiết lộ thời bấy giờ và sau này, binh
chủng Lực Lượng Đặc Biệt Việt Nam Cộng Hòa đã trở thành nạn nhân trong việc
kình chống giữa hai chính phủ Việt – Mỹ. Người
Mỹ kết án Lực Lượng Đặc Biệt được chính phủ Ngô Đình Diệm xử dụng như lực lượng
chính bảo vệ cho chế độ, thi hành những nhiệm vụ đàn áp đối lập; vì vậy họ
ngưng tài trợ cho binh chủng này. Và cho dù ông Diệm – ông Nhu đã bị sát hại
một cách man rợ, đến năm 1969 thì Lực Lượng Đặc Biệt cũng phải giải tán vì
thiếu ngân khoản Những trại Biệt Kích dọc theo biên giới được cải tuyển
sang binh chủng Biệt Động Quân.
Ví dụ
như ở vùng IV, dọc theo kinh Vĩnh Tế phân chia hai nước Việt – Miên, từ Thất
Sơn Châu Đốc chạy dài sang Hà Tiên Rạch Giá có ba trại Biệt Kích. Trại Ba Xoài
cải tuyển thành Tiểu đoàn 94, Trại Vĩnh Gia thành Tiểu đoàn 93, và Trại Tô Châu
thành Tiểu đoàn 66. Còn có Tiểu đoàn 85 đóng quân chung với Bộ Chỉ huy Liên đoàn
tại Thất Sơn. Các vị Tiểu đoàn trưởng đầu tiên, theo thứ tự trại vừa nêu là Đại
úy Triệu Sang, Thiếu tá Hoàng Đình Đốc, Thiếu tá Nguyễn Văn Thanh, và Đại úy
Khôi (người viết quên họ). Liên đoàn 42 Chiến thuật Biệt Động Quân là hậu thân
của B20 Lực Lượng Đặc Biệt, chỉ huy bốn tiểu đoàn kể trên.
Các trại là các toán A Lực Lượng Đặc Biệt được cải
tuyển thành cấp tiểu đoàn BĐQ, các toán
B chỉ huy các toán A thành cấp liên đoàn, các toán C chỉ huy một vùng thì trở
thành bộ chỉ huy BĐQ Quân khu. Ở Cần Thơ, C4 trở thành Bộ Chỉ Huy Biệt
Động Quân Quân Khu IV, dưới sự chỉ huy của Đại tá Phạm Duy Tất
Liên đoàn trưởng đầu tiên của Liên đoàn 42
Chiến thuật Biệt Động Quân là Trung tá Nguyễn Văn Hòa, Bộ Chỉ huy Liên đoàn đặt
tại căn cứ cũ của B20 Lực Lượng Đặc Biệt, gần Trung tâm Huấn luyện Chi Lăng,
Thất Sơn. Liên đoàn 42 Chiến thuật Biệt Động Quân được thành lập vào khoảng
cuối năm 1970, trong số 5 sĩ quan theo Trung tá Nguyễn Văn Hòa từ Cần Thơ về
Thất Sơn lập Bộ Chỉ huy Liên đoàn có người viết, làm Sĩ quan Hành quân thuộc
Ban 3 Liên đoàn.
Giữa năm 1971, Trung tá Trần
Kim Đại về nhận chức Liên đoàn trưởng thay Trung tá Nguyễn Văn Hòa vừa thăng
Đại tá. (Lính thường gọi thân mật Trung tá Đại là … ông Năm Ruộng, Năm là tượng
trưng cho quan năm, Ruộng tại vì quan chuyên đóng quân ngoài ruộng, tránh nhà
dân hay khu đông đúc).
Khoảng giữa năm 1971, Bộ Tư lệnh tiền phương
của Biệt Khu 44 đến đóng chung trong căn cứ của Liên đoàn 42 Chiến thuật Biệt
Động Quân, Chuẩn tướng Tư lệnh Trần Văn Hai thường xuyên có mặt tại căn cứ. Hơn
tháng sau đến phiên Đại tá Phạm Duy Tất mang Bộ Chỉ huy nhẹ của mình từ Cần Thơ
đến căn cứ. Cho thấy đang có một sự chuẩn bị về một chiến dịch, hay một trận
đánh lớn nào đó sắp sửa xảy ra. Vào dịp này, Đại tá Tất gọi người viết về làm
Sĩ quan Tùy viên, có lẽ nhờ kinh nghiệm đã phải đi bay liên miên với trực thăng
của Lực Lượng Đặc Biệt Hoa Kỳ trong thời gian đầu tiên Liên đoàn 42 vừa thành
lập thiếu hụt sĩ quan Ban 3.
Tới đây xin được phép kể một
việc tuy riêng nhưng cũng có dính dấp đến chủ đề bài này. Vài năm trước khi qua
đời, Trung tướng Ngô Quang Trưởng có
nhắn người viết qua Trung tá Trần Duy Hòe, nguyên Trưởng Phòng 2 Bộ Chỉ huy
Biệt Động Quân Quân Khu IV, nếu muốn viết về trận Kampong Trach 1972 thì lên
D.C. ông sẽ kể cho mà viết. Vì mải mê công việc, lại quen tật dần dà là cha
lỗi hẹn, đến khi bất ngờ nhận tin Tướng Trưởng qua đời, người viết bần thần nhớ
lại lời nhắn, tấm thịnh tình của ông, thì hối hận quá trễ. Xuyên qua lời nhắn,
Tướng Trưởng còn tỏ lộ sự hãnh diện của ông về trận Kampong Trach. Qua lời
nhắn, rõ ràng Tướng Trưởng kết luận sở dĩ ông có thể thoải mái gởi quân vùng IV
ra miền Trung tiếp viện cho trận “Mùa Hè Đỏ Lửa” là nhờ ở trận Kampong Trach
lực lượng Biệt Động Quân cùng Thiết Giáp Việt Nam Cộng Hòa dưới quyền chỉ huy
của Chuẩn tướng Phạm Duy Tất đã chận đứng Sư đoàn 1 Việt Cộng có thêm một trung
đoàn thuộc Công trường 9 tăng phái vẫn không thể nào xâm nhập quấy phá vùng IV.
(Đại tá Tất sau đó thăng cấp Chuẩn tướng ở vùng II).
Dĩ nhiên với cấp bậc và chức vụ quá thấp của
người viết, chỉ biết đếm con số thiệt hại nhân mạng và phương tiện vật chất thì
khó có thể nghĩ đó là một chiến thắng của phía Việt Cộng Hòa. Làm sao một sĩ
quan nhí như người viết phân biệt được Kampong Trach chỉ là diện, Hà Tiên mới là điểm!
Và các trận này có tầm vóc chiến lược quan trọng vì cái Hiệp định thổ tả Paris
1973! Đó có lẽ cũng là lý do tại sao có sự gợi ý từ Trung tướng Ngô Quang
Trưởng như vừa kể.
Gần đây, BĐQ Đỗ Như Quyên đã
gởi cho Trung tá Trần Duy Hòe một bài viết của KB Điền Đông Phương mang tựa “Kampong Trach: Cuộc Giải Vây Thần Kỳ” đăng
trên báo Cánh Thép, ngụ ý chê Tiểu đoàn 58 Biệt Động Quân “bị nhụt chí”,
đồng thời trách Chuẩn tướng Phạm Duy Tất đã “bỏ rơi” Tiểu đoàn 94 Biệt Động
Quân trong trận này. Đọc bài viết của KB Điền Đông Phương, người viết lại thở
dài một lần nữa, hối hận đã không lên D.C. để kịp nghe và kịp viết lại trận
Kampong Trach từ Tướng Trưởng.
Bây giờ xin trở lại với thực tế của trận
Kampong Trach.
Những tháng trước cái Tết 1972,
trực thăng của Đại tá Phạm Duy Tất bay hàng ngày trên khu vực dọc kinh Vĩnh Tế
(lúc này Biệt Động Quân còn chịu trách nhiệm toàn vùng biên giới Việt – Miên)
đã nhận thấy sự xuất hiện bất bình thường của quân Việt Cộng. Những tốp bộ đội
chính quy mặc quân phục màu vàng xuất hiện ngay giữa ban ngày, bắt đầu bị phát
giác trong khu vực Thất Sơn hoặc vùng đối diện phía bên Miên, rồi dần dà phát
hiện thêm những tốp khác về phía Tây, tức hướng Hà Tiên. Đại khái, họ kéo nhau
băng từ Đông sang Tây, trong khu vực dọc hai bên kinh Vĩnh Tế vài cây số. Có
lần, một toán Việt Cộng quân số khoảng hơn một trung đội đang đi giữa một cánh
đồng vàng rực giữa trưa thì nghe tiếng trực thăng của Đại tá Phạm Duy Tất bay
tới. Họ chổng mông quỳ thành một hàng dài trong quân phục cũng màu vàng, có lẽ
với hy vọng phía trên cao nhìn lơ mơ xuống thì tưởng là … bờ ruộng. Nhưng ông
Tất và phi hành đoàn đâu có đang bay lơ mơ, chẳng những hai xạ thủ đại liên
khai hỏa mà những người còn lại trên phi cơ, trừ hai phi công, cũng đồng loạt
bấm cò M16. May mắn tức thời cho toán quân này, đây là một phi vụ C&C nên
trực thăng không có gắn ống phóng hỏa tiển.
Trong thời gian này Trung tá Trần Kim Đại đang
dẫn Liên đoàn 42 Biệt Động quân gồm ba Tiểu đoàn 66 – 93 – 94 được tăng phái
thêm một Chi đoàn của Thiết đoàn 12 Kỵ Binh hành quân ngoại biên trong vùng
phía Bắc Kampong Trach. Tháng 3/1972 bất ngờ xãy ra một trận “tao ngộ chiến”
với bộ đội chính quy Việt Cộng với quân phục kaki vàng, nón cối. Phía ta bị
cháy một chiếc M113, theo lời Trung tá Đại kể thì thiệt hại nhân mạng cả hai
bên không đáng kể. Trận đánh xãy ra ở một địa điểm cách Kampong Trach 6 cây số
về hướng Bắc, cách Tuk Meas 1 cây số về hướng Nam.
Theo BĐQ Đỗ Như Quyên, trong
trận “tao ngộ chiến” ngày 22/3/1972 chỉ một mình Tiểu đoàn 94 Biệt Động Quân đã
phải “tao ngộ” với một lực lượng địch đông và mạnh hơn gấp mấy lần, gồm Trung
đoàn 88, Trung đoàn 40 Pháo binh, Đoàn 200 Hậu cần thuộc Công trường 1 Việt
Cộng. Trung tá Đại dẫn liên đoàn lội ngược về phía Nam đóng chận tại Kampong
Trach (quan Năm Ruộng hạ trại ngoài ruộng, nên phố xá – trường học – nhà cửa
trong thị trấn Kampong Trach không hề bị thiệt hại vì trận đánh) đồng thời báo
cáo tình hình về Bộ Tư lệnh tiền phương Biệt Khu 44 ở Thất Sơn. Chuẩn tướng
Trần Văn Hai quyết định tăng phái nguyên Thiết đoàn 12 Kỵ Binh cho Trung tá
Đại, nhưng ông Đại nêu ra vấn đề lấn cấn về chỉ huy, vì Liên đoàn trưởng Biệt
Động Quân và Thiết đoàn trưởng Kỵ Binh có chức vụ ngang nhau.
Tới đây thì Trung tướng Ngô Quang Trưởng, với quyết tâm chận đứng Sư đoàn 1 Việt
Cộng ở Kampong Trach, ra lệnh đưa cả hai Thiết đoàn 12 và 16 dưới quyền chỉ huy
của Đại tá Nguyễn Văn Của, Tư lệnh phó Lữ đoàn 4 Kỵ Binh, từ ngã Hà Tiên tiến
qua Kampong Trach. Ở Thất Sơn, theo lời kể của Đại tá Phạm Duy Tất, Chuẩn
tướng Hai hỏi Đại tá Tất (không phải lệnh) có muốn vào Kampong Trach để “nâng
cao tinh thần” của Biệt Động Quân không? (‘nâng cao tinh thần’ không phải là
một nhiệm vụ chính thức). Lý do có vụ “mời mọc” khá lạ của Tướng Hai là vì lúc
đó vùng trách nhiệm vừa được Bộ Tư Lệnh Quân Khu IV phân chia lại như sau:
Thiết Giáp chịu trách nhiệm vùng từ Châu Đốc tới Hà Tiên, Biệt Động Quân chịu
trách nhiệm khu vực từ Mộc Hóa tới Kiến Phong. (Trước đó Biệt Động Quân chịu
trách nhiệm tất cả). Được “mời”, Đại tá Tất cũng OK luôn với Tướng Hai.
Làm việc cho ông Tất mệt hơn
bất cứ ông sếp nào khác, vì cái tật “ghiền” đi bay của ông. Chẳng những bay
trực thăng dành cho mình, khi không có ổng đòi bay ké luôn trực thăng của mấy
sếp khác, đi bay, đi bay, bay riết tới … mỏi chim. Vụ đi theo Đại tá Tất vào
Kampong Trach đúng là nhiệm vụ của người viết, nhưng vào lúc đó thì có Đại úy Lê
Ngọc Thạch nguyên là Tiểu đoàn phó Tiểu đoàn 93 “cơm không lành canh không
ngọt” với Tiểu đoàn trưởng bèn khăn gói ba lô về Bộ Chỉ huy Thất Sơn. Xui cho
Đại úy Thạch, bị ông Tất bắt gặp đang cà nhỏng, bèn được “mời” về văn phòng Chỉ
huy trưởng, được “phong” làm Chánh văn phòng ngoài ý muốn. Mỗi ngày nhìn ông
Thạch ngồi bàn giấy thở dài thườn thượt lật mớ hồ sơ thiệt hổng khác gì cảnh
một võ sĩ bị buộc hành nghề … viết văn. Đại tá Tất bắt Đại uý Thạch theo ổng
vào Kampong Trach thay vì người viết. Sau hơn 20 niên gặp lại Đại úy Thạch ở
Quận Cam, ổng vẫn còn … uất ức, chửi thề rùm beng “Đụ mẹ, lúc đó tao cự nự ổng
sao hổng bắt mầy mà bắt tao đi theo, ổng nói tại thấy mầy là con trai một trong
gia đình, báo hại tao ‘ăn’ pháo thấy mẹ luôn”. Do vậy bài viết này viết dựa
theo lời kể của những vị tham dự trực tiếp trận đánh chớ không do người viết tự
kể, vì người viết chỉ theo dõi từ các trung tâm hành quân nằm chung trong căn
cứ của Liên đoàn 42 Chiến thuật Biệt Động Quân.
Sau khi Đại tá Phạm Duy Tất
(BĐQ) và Đại tá Nguyễn Văn Của (TG) đã vào tới Kampong Trach, Trung tướng Ngô
Quang Trưởng chính thức chỉ định ông Tất làm Tư lệnh chiến trường Kampong
Trach, ông Của làm Phó. Lúc này đã có trực thăng bị bắn rớt, phi
hành đoàn bị kẹt lại ở mặt trận, từ đây tiếp liệu phải thả dù từ cao lắc cao lơ
thường rớt xuống những chỗ … nhân gian phe ta không thể … lượm. Theo nhận định
của Trung tá Trần Kim Đại, tuy trận Kampong Trach không ác liệt bằng các trận ở
những vùng khác sau đó, nhưng nó là một trận ác liệt nhất mang tính quyết định
đối với Quân Khu IV tính cho tới thời điểm đó. Lần đầu tiên Việt Cộng Sản xuất
quân ở cấp sư đoàn +, và chuẩn bị sẵn cả … rừng pháo. Quân Việt Cộng Hòa thiệt
hại nhiều nhất vì pháo của Việt Cộng Sản, vì họ pháo rất … sang trọng, pháo xả
láng. Đại tá Tất được Tướng Trưởng tăng cường cho một Pháo đội 105 ly cùng một
Đại đội Công Binh.
Theo lời kể của Trung tá Trần
Kim Đại, Pháo đội 105 ly của mình bị Việt Cộng pháo banh ta lông, nhưng vẫn còn
bắn được nếu chỉ bắn trực xạ. Có một số binh sĩ thì kể rằng họ nghĩ lính Việt
Cộng bị cho uống … thuốc điên, vì có lần xuất quân thì thấy một nữ binh trẻ
măng chạy dẫn đầu cầm loa tay hét to “Các đồng chí tiến lên, chết trẻ hơn chết
già, chết hôm nay … ngày mai khỏi chết”, các đồng chí nam lúp xúp chạy theo đàng
sau cô bé, có khi bám mẹ vào thành xe tăng, phía trên lưỡi lê tua tủa đâm xuống. Chết hôm nay ngày mai khỏi
chết? Má ơi! Hết biết luôn! Thuốc điên? Lính suy nghĩ đâm
bang vậy mà thấy cũng có phần hữu lý quá chớ! Nếu tâm lý chung của phần đông
nhân loại là “chết hôm nay ngày mai khỏi chết” thì không cần phải ngại chi nạn
nhân mãn, chỉ nên lo thế giới sẽ nẩy sinh hàng đống đống người bất cần đời hành
động khật khùng gieo tai họa khắp mọi nơi.
Trước khi viết bài này người
viết cũng gọi hỏi Đại tá Trần Kim Đại (sau này Trung tá Đại thăng Đại tá ở vùng
I), tại sao mình rút quân? Ông Đại trả lời, mình quyết định rút vào lúc Công
trường 1 của họ thấy coi bộ không thể vượt qua “hàng rào” của Việt Nam Cộng Hòa
ở Kampong Trach, họ phải hạ nồng độ chiến trường, vòng xuống chuẩn bị tấn công
khu Xi Măng Hà Tiên. Theo người viết, họ đồng thời dàn pháo – rải quân dầy đặc
ở phía Nam Kampong Trạch với mục đích làm chậm đi cuộc rút quân của hai Thiết
đoàn 12 và 16, cùng Liên đoàn 42 Biệt Động Quân, chậm thêm ngày nào tốt ngày
đó, vì họ muốn rảnh tay thanh toán khu Xi Măng Hà Tiên.
Người viết hỏi câu hỏi trên vì
lý do trong bài “Kampong Trach: Cuộc Giải Vây Thần Kỳ” người anh em KB Điền
Đông Phương tin rằng Thiết đoàn 12 KB và Tiểu đoàn 58 Biệt Động Quân hành quân
từ Hà Tiên tiến qua Kampong Trach là nhằm để giải vây cho lực lượng Biệt Động
Quân và Thiết Giáp đang đóng quân tại Kampong Trach. Thật sự thì tình hình lúc
đó đã thay đổi, Công trường 1 đã “nản” Kampong Trach, họ đã cho Trung đoàn 101D
đi bọc xuống hướng Nam chuẩn bị vượt biên giới đánh vào khu Xi Măng Hà Tiên,
phần lớn các đơn vị khác của họ cũng bọc vòng xuống phía Nam chuẩn bị chận
đường rút quân của hai Thiết đoàn 12 – 16 và Liên đoàn 42 Biệt Động Quân nhằm
phá hoại ý định điều động quân của Trung tướng Ngô Quang Trưởng cho trận đánh
sắp tới ở bên biên giới Việt Nam.
Vì tầm mức quan trọng như vậy,
(chớ không phải Tướng Trưởng lo ngại địch sắp dứt điểm lực lượng trấn đóng
Kampong Trach), Tướng Trưởng đã đích thân đáp xuống Tô Châu, có mặt vào lúc
xuất quân để tác động tinh thần và trực tiếp giao nhiệm vụ cho Thiết đoàn 2 Ky
Binh và Tiểu đoàn 58 Biệt Động Quân hành quân mở đường, sau đó bọc sườn cho lực
lượng trấn đóng Kampong Trach rút về đúng thời gian kịp cho Liên đoàn 42 Biệt Động Quân của Trung tá
Trần Kim Đại đánh dứt điểm trận Xi Măng Hà Tiên cũng như Đại tá Phạm Duy Tất sẽ
mang Tiểu đoàn 86 Biệt Động Quân của Thiếu tá Tạ Thành Lộc đánh vào Núi Cọp,
phía Đông Bắc hãng xi măng Hà Tiên, nằm trong lãnh thổ Việt Nam. Hai trận này xảy ra đúng theo dự tính của
Tướng Trưởng, đã xóa sạch giấc mộng của Sư đoàn 1 Việt Cộng muốn “quậy tung” vùng IV trước trận “Mùa Hè Đỏ Lửa” miền
Trung.
Tướng Trưởng biết chắc sẽ đụng
địch rất nặng trên đoạn đường 14 cây số từ Hà Tiên đến Kampong Trach nên đã
chọn Tiểu đoàn 58 Biệt Động Quân thiện chiến làm đơn vị tùng thiết cho Thiết
đoàn 2 Kỵ Binh.
Đúng như lời người anh em KB
Điền Đông Phương viết (nguyên văn): “Ngày hôm sau, chúng tôi bắt đầu nhập trận,
đoàn quân đi như gió bão, chiếm từng cụm vườn, từng khu xóm… hướng về Kampong
Trach. Đến trưa thì chạm súng, phải đến chiều hôm đó mới thanh toán xong những
ổ kháng cự. Rồi hai ngày sau đó, chúng tôi bị cầm chân ở khu vực gần ngôi chùa
nằm cách Kampong Trach khoảng 5 cây số, vì cộng quân gài chốt ở khắp nơi. Đến
ngày thứ 6 thì chúng tôi bám sát được ngôi chùa”.
Có nghĩa là 6 ngày hành quân mở
được khoảng 9 cây số đường, chưa kể có lần bị dội ngược về biên giới, những sự
kiện này tự thân đã giải quyết được nổi thắc mắc của chính KB Điền Đông Phương
(nguyên văn): “Kampong-Trach: một địa-danh xa lạ, một
nơi chốn xa tít mù khơi. Một địa-danh ít người biết đến. Một nơi đã gây
phiền-não, bối-rối cho Danh-Tướng Ngô Quang Trưởng. Nơi đó Lữ-Đoàn 4 Kỵ-Binh
gồm 2 Thiết-Đoàn 12 và 16 Kỵ-binh được chỉ-huy bởi Đại-Tá Nguyễn Văn Của và
Liên-Đoàn 7 Biệt-Động-Quân do Đại-Tá Phạm Duy Tất chỉ-huy bị vây hãm cả tháng
trời”.
Vì không có thắc mắc như KB
Điền Đông Phương nên Bộ Tư lệnh tiền phương Biệt Khu 44 và các Bộ Chỉ huy Biệt
Động Quân ở Thất Sơn đã cùng Trung tâm Huấn luyện Chi Lăng chuẩn bị trước một
số tân binh vừa mãn khóa huấn luyện sẵn sàng tung vào bổ sung kịp thời bù đắp
cho sự thiệt hại nhân mạng (đã dự đoán trước) của Tiểu đoàn 58 Biệt Động Quân.
Công việc chuẩn bị này thật là hữu ích.
Nhưng, dù có hiểu sao đi nữa, giải vây hay mở đường, chiến công
của Thiết Đoàn 2 Kỵ Binh cùng Tiểu đoàn 58 Biệt Động Quân rất – rất – rất đáng
được ca tụng là thần kỳ, khi Thiết Giáp bắt tay được với Thiết Giáp, Biệt Động
Quân bắt tay được với Biệt Động Quân, tại Kampong Trach. Nhưng, cũng lại là nhưng, chuyện đời thì không có chi toàn vẹn,
thần kỳ ấy đã bị người anh em KB Điền Đông Phương làm mẻ đi bớt tính thần kỳ,
vì người anh em còn có viết thêm một đoạn (nguyên văn): “Qua ngày
hôm sau, tiếp tục chạm súng. Anh em Biệt Động Quân có vẻ nhụt chí, khiến cho
Nghê Thành Thân tức giận nhảy xuống khỏi xe, rồi cùng với một đại đội trưởng
của họ là trung úy Gia xông thẳng vào phòng tuyến địch để họ phải tiến lên
theo”.
Việc Thiếu tá KB Nguyễn Văn
Răng viết trong bài “Trận Chiến Kampong Trạch” buồn phiền chuyện Thiết đoàn 9
Kỵ Binh vừa đến Kampong Trach bị đưa vào đóng trong một vườn tiêu rồi bị thiệt
hại nặng thì chính tác giả Nguyễn Văn Răng đã viết là lệnh trực tiếp từ Đại tá
Của, Tư lệnh phó Lữ đoàn 4, nên người viết bài này không dám có ý kiến. Nhưng
còn chuyện KB Điền Đông Phương phê bình tinh thần chiến đấu của Tiểu đoàn 58
Biệt Động Quân thì dám xin góp ý với người anh em rằng, Tiểu đoàn 58 ấy chính là Tiểu đoàn 41 (Cọp Ba Đầu Rằn) thuộc Liên đoàn
4 Biệt Động Quân, một tiểu đoàn đánh giặc rất cừ khôi nổi tiếng khắp vùng IV
với những vị chỉ huy đã đánh thì nhất định đánh tới nơi tới chốn nên cũng là
tiểu đoàn có con số Tiểu đoàn trưởng tử trận nhiều nhất, đến nỗi Bộ Chỉ Huy
Biệt Động Quân ở Sài Gòn phải quyết định cải danh lại, hy vọng các Tiểu
đoàn trưởng … thôi chết giùm. Đại úy Măng, Tiểu đoàn trưởng 58 mà người anh em
KB Điền Đông Phương kể là bạn cũ của mình, tham dự trận này, cũng là một trong
những Tiểu đoàn trưởng hạng nhất mà Tiểu đoàn từng có (ông Măng sau này thăng
cấp Thiếu tá rồi Trung tá). Và rất mong Trung úy Gia (hoặc đã thăng Đại úy,
Thiếu tá), Trung tá Măng của Tiểu đoàn 58 Biệt Động Quân, nếu tình cờ đọc được
bài của KB Điền Đông Phương hay bài viết này, xin vui lòng kể lại cuộc hành
quân tùng thiết mở đường của quý vị.
Điểm cuối cùng người viết phải
nêu ra là hai đoạn viết sau đây của KB Điền Đông Phương (nguyên văn):
– Bây giờ tại Kampong Trach chỉ
còn Thiết Đoàn 2 Kỵ Binh chúng tôi và Tiểu Đoàn 58 BDQ nằm lại. Mặc dù bị tổn
thất nhưng tinh thần anh em Kỵ Binh vẫn vững vàng. Tuy nhiên khi Liên Đoàn 7
BDQ rút đi, Đại Tá Phạm Duy Tất, Liên Đoàn Trưởng, đã bỏ rơi Tiểu Đoàn 94 BDQ.
Tiểu Đoàn BDQ nầy nằm giữ phía Bắc Kampong Trach không hề hay biết về cuộc triệt
thoái. Khi LD7BDQ đã an toàn về
đến VN thì Tiểu Đoàn 94 bị quân CSBV xâm lược cường tập dứt điểm.
– Trong niềm vui chiến thắng
anh em Kỵ Binh chúng tôi ai cũng nghẹn ngào khi chứng kiến cảnh những chiến hữu
BDQ đã từng kề vài sát cánh chiến đấu chung một chiến hào trên khắp mặt trận
Quân Khu IV chết tức tửi, chết nghẹn ngào và chết vô lý. Chuẩn Tướng Phạm Duy
Tất, Ông nghĩ gì về Mặt trận Kampong Trach? Dẫu biết rằng “Nhất Tướng công
thành vạn cốt khô” nhưng sao nghe nghẹn ngào và cay đắng quá.
“Bỏ rơi” Tiểu đoàn 94 Biệt Động
Quân? Tiểu đoàn 94 Biệt Động Quân “không hề hay biết” về cuộc triệt thoái?
Người viết không gọi hỏi Chuẩn tướng Phạm Duy Tất mà hỏi Đại Tá Trần Kim Đại, là Liên đoàn trưởng chỉ huy ba Tiểu đoàn 66 –
93 – 94 Biệt Động Quân tham dự trận Kampong Trach. Ông Đại lập tức phản đối cái
vụ gọi là “bỏ rơi” này, ông cho biết lệnh rút quân đó là một lệnh tức thì,
nghĩa là sau khi lệnh ban ra thì rút liền để giữ sự bất ngờ đối với địch. Ông
Đại xác nhận, lệnh từ ông Tất ban ra, ông Đại nhận và chuyển cùng một thời gian
cho ba tiểu đoàn dưới quyền, cũng như ông Của đã nhận và chuyển cho các đơn vị
Thiết Giáp cùng một lúc. Tiểu đoàn 94 Biệt Động Quân đóng quân xa nhất về hướng
Bắc Kampong Trach, theo lời ông Đại kể là đóng trên núi đá vôi, nên họ là đơn
vị đàng sau cùng cuộc rút quân. Trước khi rời trại lên Thiết giáp rút đi, Trung
tá Đại gặp Đại úy Liêm Tiểu đoàn phó
Tiểu Đoàn 94 ở phía sau cổng trại, tức cách ngã ba phía Nam thị trấn
Kampong Trach chừng 500 thước. Sau đó trên
đường rút quân ông Liêm trúng pháo bị thương nặng, không muốn binh sĩ bận bịu
vì ông mà mang họa, Đại úy Liêm đuổi lính đi rồi rút chốt lựu đạn tự sát; Trung
sĩ I Vinh gốc Lực Lượng Đặc Biệt, người anh em thân thiết của người viết lúc
làm việc chung trong Ban 3 Liên đoàn 42 cũng chết gần đó, theo lời kể của những
binh sĩ 94 BĐQ về từ Kampong Trach mà người viết đã gặp lại tại căn cứ Thất Sơn.
Theo
BĐQ Đỗ Như
Quyên, “trên” đã nhất định đòi Công trường 1 phải chiếm cho bằng được Hà Tiên
làm hải cảng để được hưởng điều khoản “quân ai đang có mặt ở đâu thì coi như là
đất của phe đó” của Hiệp định không hòa bình Paris 1973. Tầm quan trọng của trận Kampong Trach là
vậy, là tất cả các lực lượng Việt Cộng Hòa tham dự trận Kampong Trach đã không
cho phép Việt Cộng Sản có được một hải cảng trong vùng IV.
Ngày
15/4/1972 Trung đoàn 101D thuộc Công trường 1 được tăng phái thêm Trung đoàn
52D Chủ lực miền đánh chiếm nhà máy Xi Măng Hà Tiên, nằm cách Thị xã Hà Tiên 7
cây số về hướng Đông Nam. Trung tá Trần Kim Đại cho các tiểu đoàn vừa từ
Kampong Trach về tái nhập trận với sự yễm trợ của các đơn vị Thiết vận xa M113.
Đại tá Phạm Duy Tất bốc thêm Tiểu đoàn 86 của Thiếu tá Tạ Thành Lộc từ bên Mộc
Hóa qua trực thăng vận thẳng xuống Núi Cọp, với lối thả quân sát vào sào huyệt
địch, xuống là đụng liền, trận này được Tiểu đoàn 86 Biệt Động Quân giải quyết
vô cùng nhanh chóng (người viết có mặt tại chỗ). Việt Cộng Hòa dứt điểm hai
trận này vào ngày 29/4. Các đơn vị còn lại của Công trường 1 tất tả băng ngược
qua biên giới rút lui về Takeo, bên Miên..
Không
thể có “hải cảng Hà Tiên” ở vùng IV, “trên” lại ra lệnh Tướng Chu Huy Mẫn đưa
Sư đoàn 3 Sao Vàng đánh lấy Sa Huỳnh làm “hải cảng” ở vùng I cho kịp Hiệp định
không hòa bình Paris (28/1/1973). Nhưng đã có cuộc “tái ngộ lý thú” xãy ra: Lúc
này có ba nhân vật liên quan tới trận Kampong Trach – Hà Tiên ở vùng IV lại
đang có mặt tại vùng I, Trung trướng Ngô Quang Trưởng đã trở thành Tư lệnh Quân
Khu I, Đại tá Trần Kim Đại đang nắm Liên đoàn 1 Biệt Động Quân và Đại tá Vũ
Quốc Gia nguyên Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 4 Thiết Kỵ đang là Lữ đoàn trưởng Lữ
đoàn 1 Thiết Kỵ.
Ở
cuộc “tái ngộ kỳ thú” này, Tướng Trưởng ra lệnh Đại tá Đại đưa Liên Đoàn 1 Biệt
Động Quân gồm ba Tiểu đoàn 21 – 37 – 39 vào Sa Huỳnh tăng phái cho Sư đoàn 2 Bộ
Binh và đã đánh bật Sư đoàn 3 Sao Vàng ra khỏi “hải cảng trong mộng của Việt
Cộng Sản” trước khi cái Hiệp Định thổ tả kia có hiệu lực. Ba phần tư chiến lợi
phẩm vũ khí nặng lấy được trong trận này là do Liên đoàn 1 Biệt động quân.
Liên đoàn 42 Biệt Động Quân của Trung tá Trần
Kim Đại được tăng phái một Chi đoàn Thiết Giáp mở màn trận Kampong Trach ở phía
Bắc của nó. Cuối cùng cũng chính lực lượng của ông Đại đã dứt điểm nó bằng trận
đánh tại vùng Xi Măng Hà Tiên, khá xa nó về hướng Nam. Nhiệm vụ của CHÚNG TA đã
hoàn tất tốt đẹp!
Quân
Biệt Động cùng Thiết Giáp dưới quyền chỉ huy của Đại tá Phạm Duy Tất cũng vậy,
đã chận đứng mưu xâm nhập vào Quân Khu IV của Công trường 1 Việt Cộng (được
tăng phái thêm một trung đoàn của Công trường 9) tại Kampong Trach.
Nhờ vậy Trung tướng Ngô Quang Trưởng chẳng những giữ được tình hình vùng IV yên
ổn mà còn có thể thoải mái gởi quân tiếp viện cho trận “Mùa Hè Đỏ Lửa” miền
Trung sau đó. Chiến thắng Kampong Trach là chiến thắng của CHÚNG TA!
Chứng
kiến đồng đội ngã xuống, đó bao giờ cũng là những cái chết tức tửi, vô lý, đối
với những người may mắn còn ở lại, khiến người ở lại nghẹn ngào. Nhưng chiến
binh thứ thiệt thì không cần thiết trút nỗi nghẹn ngào của mình lên đầu những
đơn vị bạn khác binh chủng, cũng như không cần thiết tạo thành nỗi vinh quang cho
mình cùng cách na ná như vậy. Thắng bại là chuyện thường tình của nhà binh,
nhưng nếu quên nằm lòng hai chữ CHÚNG TA thì sẽ dính cái sau hơn là cái trước
cũng là chuyện thường tình.
Cuối
cùng, đừng quên toàn thể các chiến binh thuộc tất cả các binh chủng của quân
đội Việt Nam Cộng Hòa trong đó có anh, có tôi, có bạn bè anh, có bạn bè tôi,
cùng bại trận vào tháng Tư năm 1975; và CHÚNG TA cùng đã nghẹn ngào!
Little
Saigon, tháng Mười Hai 2011
Đỗ
Sơn
https://baovecovang2012.wordpress.com/2013/02/05/tran-kampong-trach-1972-tieu-doan-58-biet-dong-quan-co-bi-nhut-chi-va-tieu-doan-94-biet-dong-quan-co-bi-bo-roi-khong-do-son/
.
Ta bại trận là do đảo chánh 1963 đưa lên giai cấp tuớng lãnh đạo thiếu ý chí chiến đấu, VC chưa đánh đã lo rút lui di tản. Miền Bắc động viên 15-16 tuổi, miền Nam không chịu tổng động viên, để hàng trăm ngàn thanh niên hoãn dịch ở nhà biểu tình tranh đấu tiếp tay với CS. Quân CS vưà đến Long Bình là nguời hùng đảo chánh 1963 vội vã đầu hàng. Lính và sĩ quan cấp nhỏ không hàng, chỉ có đại tuớng đầu hàng.
ReplyDelete