Trận Tống Lê
Chân 1973 - Tử Thủ 510 Ngày - Quân Sử VNCH Chiến Tranh Việt Nam
Trong lịch sử chiến tranh cận
đại, có nhiều trận đánh lớn quân số đôi bên lên tới nhiều sư đoàn, hoặc với tầm
mức quan trọng “dứt điểm” như trận Normandie, Stalingrad, Okinawa, Iwo Jima,
v.v… Trong cuộc chiến tranh vừa qua tại Việt Nam, chúng ta cũng thường nghe nói
tới những trận đụng độ ác liệt như trận Hạ Lào, An Lộc, Quảng Trị, Pleiku, v.v…
So với những cuộc hành quân nổi tiếng kể trên, trận đánh tại Tống Lê Chân giữa
một tiểu đoàn Biệt Ðộng Quân (BÐQ) Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và quân
Cộng Sản không những chỉ nhỏ bé về tầm vóc mà còn cả về mức độ quan trọng.
Trại Tống Lê Chân chẳng qua chỉ
là một tiền đồn hẻo lánh gần biên giới Việt-Miên thuộc Vùng 3 Chiến Thuật, có
nhiệm vụ phát hiện sự xâm nhập của địch quân vào lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa. Tuy chỉ là một trận đánh nhỏ
lại không mấy quan trọng, nhưng nếu kể về tinh thần chiến đấu can trường và sức
chịu đựng phi thường của người lính chiến trong hoàn cảnh dầu sôi lửa bỏng, các
chiến sĩ Tiểu Ðoàn 92 BÐQ đã vượt
trội và tạo nhiều thành tích có một không hai khiến trận đánh Tống Lê Chân trở
thành có tầm vóc lịch sử, khác biệt và đáng chú ý hơn nhiều trận đánh lớn khác.
Nhân
dịp kỷ niệm ngày Quân Lực VNCH 19 Tháng Sáu, chúng tôi tường thuật lại trận
đánh oai hùng của Tiểu Ðoàn 92 BÐQ tại Tống Lê Chân qua những tài liệu thâu
thập được để tôn vinh các chiến sĩ Cọp
Rừng Mũ Nâu. Ðây cũng là dịp tri ân toàn thể Quân Lực VNCH đã đổ nhiều
xương máu bảo vệ quê hương. Tác giả cũng hy vọng sẽ được tiếp xúc với các chiến
sĩ đã có mặt hoặc liên quan đến trận Tống Lê Chân để có dịp sửa đổi và bổ túc
thêm chi tiết giúp bài viết thêm chính xác.
Bối cảnh lịch sử
Trận
đánh tại tiền đồn Tống Lê Chân
trở nên sôi động vào một thời điểm hết sức đặc biệt, đó là lúc hiệp định ngưng
bắn Paris vừa được ký kết vào đầu năm 1973, trên nguyên tắc chấm dứt cuộc chiến
tranh giữa hai phe Quốc-Cộng tại Việt Nam. Nhưng đó chỉ là lý thuyết. Trên thực
tế, đây lại là trái hỏa mù để quân đội
Hoa Kỳ nương theo đó mà giải kết “rút quân trong danh dự,” nếu nói theo
kiểu cặp bài trùng Kissinger và Nixon, và để Bắc Việt mặc sức tung hoành xua
quân đánh chiếm Miền Nam.
Hoa
Kỳ thỏa thuận rút quân trong vòng 60 ngày, trong khi bộ đội Bắc Việt được tự do
ở lại và thao túng tại miền Nam vô thời hạn. Như vậy, người bạn đồng minh đã mở
ngỏ cửa và bật đèn xanh, giúp Cộng quân thành công trong việc thôn tính miền
Nam. Trong khi đó Quân Lực VNCH coi như bị bỏ rơi, bị bó tay nên lâm vào tình
trạng kiệt quệ, một mình lại phải đương đầu không những với bộ đội Bắc Việt mà
hầu như toàn khối Cộng Sản đang viện trợ những vũ khí tối tân cho quân xâm
lăng.
Cộng
Sản Bắc Việt đã vi phạm hiệp định ngưng bắn ngay khi vừa ký kết xong còn chưa
ráo mực, có thể nói với sự gián tiếp đồng ý của người bạn Hoa Kỳ. Trong cuộc họp báo ngày 24 Tháng Giêng, năm
1973, chính Ngoại Trưởng Hoa Kỳ Henry Kissinger, người đã cùng tên đồ tể Lê Ðức
Thọ của Cộng Sản Bắc Việt (CSBV) ký “hòa ước” bức tử Miền Nam, đã không một
chút ngượng ngùng khi tuyên bố: “Thỏa ước ngưng bắn không có điều khoản nào cho
phép quân đội Bắc Việt có mặt tại miền Nam. Bắc Việt cũng không đòi hỏi, nhưng
chúng tôi ước lượng hiện có chừng 145,000 quân Bắc Việt đang tham chiến tại
miền Nam Việt Nam.”
Rõ
ràng, Hoa Kỳ đã nhập nhằng ký kết hiệp ước bán đứng Việt Nam Cộng Hòa với mục
đích duy nhất đóng của rút cầu, bỏ rơi Miền Nam khi không buộc Cộng Sản Bắc
Việt cũng phải rút quân về Bắc. Thực sự,
lúc đó Bắc quân đã có đến 13 sư đoàn quân chính qui tại miền Nam với quân số
tổng cộng gần 200,000 người. Ngoài ra, chúng còn có các đại đơn vị pháo
binh diện địa và chiến xa yểm trợ cùng các kho quân lương, vũ khí tại Lào và
Cam Bốt được coi là an toàn khu. Tại khu vực đường mòn Hồ Chí Minh bên Lào, các
xe vận tải của Cộng quân công khai ồ ạt chở súng ống, đạn được và binh sĩ vào
xâm lăng miền Nam vì không còn bị oanh tạc như trước.
Vì
vậy, tình hình sau khi ngưng bắn hoàn toàn bất lợi cho Quân Lực VNCH. Các đại
đơn vị không thể nào dành được thế chủ động để lùng và diệt địch trên chiến
trường vì phải trải quân quá mỏng để trám vào những chỗ trống do quân đội Hoa
Kỳ bỏ lại. Trong lúc đó, Cộng quân được tự do bổ sung quân số, tích lũy tiếp
vận để tạo áp lực quân sự trên khắp lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa.
Tương quan lực lượng
Riêng
tại Vùng 3 Chiến Thuật, ba sư đoàn Cộng
quân gồm các công trường 5, 7 và 9 lợi dụng an toàn khu tại vùng Lưỡi Câu, Mỏ Vẹt bên Cam Bốt thường vượt biên đánh phá dọc
Quốc Lộ 13 từ Lộc Ninh đến Bến Cát nằm về phía Bắc thủ đô Saigon. Khi mạnh,
họ tung lực lượng quấy phá. Lúc yếu, lại rút qua biên giới dưỡng quân để chờ cơ
hội thuận tiện. Phía Việt Nam Cộng Hòa chỉ cố gắng phòng thủ trong tư thế thụ
động vì không đủ lực lượng mở các cuộc hành quân vượt biên truy kích như trước
kia vào năm 1970 khi quân đội Hoa Kỳ còn tham chiến. Ðể đối đầu với 3 sư đoàn
Cộng quân, Quân Lực VNCH trong vùng này chỉ có Sư Ðoàn 5 Bộ Binh đặt bản doanh tại Lai Khê do Ðại Tá Lê Nguyên Vỹ làm
Tư Lệnh.
Sau
nhiều cuộc tấn công thăm dò, vào đầu Tháng Tư, năm 1973, Công Trường 7 Cộng
quân tấn công và tràn ngập căn cứ Chí Linh trên Liên Tỉnh Lộ 13 gần quận lỵ Ðôn
Luân vào ngày 10 tháng 4. Ðể mở rộng đường xâm nhập từ ngả Cam Bốt, Cộng quân
cũng uy hiếp các trại Biệt Ðộng Quân Biên Phòng dọc theo biên giới như Bến Sỏi,
Thiện Ngôn, Katum, Bù Gia Mập, Tống Lê Chân, v.v…
Trước
áp lực quá mạnh của địch quân, Bộ Chỉ Huy Biệt Ðộng Quân ở Quân Khu 3 phải lần
lượt di tản hầu hết các vị trí chiến lược rất quan trọng dọc theo biên giới
ngoại trừ trại Tống Lê Chân. Lý do vì toàn thể Tiểu Ðoàn 92 BÐQ đồn trú tại
trại này đều tình nguyện ở lại chiến đấu. Trận đánh dài nhất trong quân sử khởi
đầu và trang sử oai hùng nhất của Binh Chủng cũng được Tiểu Ðoàn 92 BÐQ viết từ
giờ phút đó.
Tống
Lê Chân, địa danh xa lạ cuộc chiến tranh dai dẳng tại Việt Nam ngoài mức độ
khốc liệt, còn tạo ra những địa danh xa lạ. Nếu không có trận Tân Cảnh, Kon
Tum, làm gì có những tên Charlie, Delta? Nếu không có trận Hạ Lào chắc cũng
chẳng có LoLo, Sophia, Biệt Ðộng Quân Bắc, Biệt Ðộng Quân Nam, v.v…
Tống Lê Chân cũng là một tên rất lạ. Dân địa phương người Miên gọi vùng này là
Tonlé Tchombe. Tonlé tiếng Miên có nghĩa là sông, hồ, suối hoặc nơi nào có nước.
Thí dụ như Biển Hồ có tên Miên là Tonlé Sap. Khi mới thành lập, trại này chưa
có tên nên Thiếu Tá Ðặng Hưng Long, vị
chỉ huy trưởng đầu tiên phiên âm tiếng Miên Tonlé Tchombe thành tiếng Việt Tống
Lê Chân. Sau này, phần đông các quân nhân trong binh chủng Biệt Ðộng Quân biên phòng gọi tắt là Tống
“Lệ” Chân để ám chỉ một căn cứ đầy máu và nước mắt, không có một ngày yên
vui kể từ khi ra đời.
Tiền
đồn Tống Lê Chân nguyên thủy là một trại Dân Sự Chiến Ðấu (DSC – Civilian
Irregular Defense Group, gọi tắt là CIDG) do Lực Lượng Ðặc Biệt Hoa Kỳ thành
lập từ năm 1967 để phát hiện và ngăn chận sự xâm nhập của Cộng quân từ bên kia
biên giới. Ðến năm 1970 trong chương trình cải biến Lực Lượng Dân Sự Chiến Ðấu
thành Biệt Ðộng Quân Biên Phòng, phần đông những binh sĩ của trại Tống Lê Chân
thuộc sắc dân người thượng Stieng đều tình nguyện ở lại để trở thành Tiểu Ðoàn
92 BÐQ Biên Phòng, tổng cộng gồm 292 binh sĩ lúc khởi đầu, chưa kể một số sĩ
quan Quân Lực VNCH giữ các chức vụ chỉ huy.
Biệt Ðộng Quân Biên
Phòng
*Lực
lượng dân sự chiến đấu
Vì Tiểu Ðoàn 92 BÐQ thoát thai từ
Lực Lượng Dân Sự Chiến Ðấu,
tưởng cũng nên biết qua về tổ chức đặc biệt ít người biết tới này.
Chương
trình Dân Sự Chiến Ðấu được đặt dưới sự quản trị trực tiếp của Toán 5 Lực Lượng
Ðặc Biệt Hoa Kỳ (5th Special Forces Group) đặt bản doanh tại Nha Trang. Mục
tiêu của chương trình là dùng các sắc
tộc thiểu số (người Thượng) để thành lập các “trung tâm” (làng, buôn) chiến
lược có võ trang tại các vùng rừng núi khiến Việt Cộng không thể xâm nhập và
lợi dụng. Việc tổ chức, quản trị và huấn luyện những trung tâm hay “trại” này
đều do Lực Lượng Ðặc Biệt Hoa Kỳ đảm nhận. Thí điểm đầu tiên được thành
lập tại Buôn Enao thuộc tỉnh Ðắc Lắc vào năm 1961. Tới năm 1965 đã có khoảng 80
trung tâm được thành lập tại những vùng rừng núi hẻo lánh khó kiểm soát. Mỗi
trung tâm là một “pháo đài” có thể tự phòng thủ và có khả năng ngăn chận mọi
xâm nhập từ bên ngoài.
Ðến
năm 1965, cùng với việc Hoa Kỳ đưa quân ồ ạt vào Việt Nam, chương trình Dân Sự
Chiến Ðấu cũng được bành trướng mạnh. Các trung tâm phòng thủ được cải tiến
thành những trại lực lượng đặc biệt, trang bị vũ khí tối tân với nhiệm vụ không
những chỉ để tự vệ mà còn có khả năng tấn công. Từ đó, các toán viễn thám dò tìm địch quân mang biệt danh Delta, Omega và
Sigma ra đời. Nhiệm vụ chính của những toán này là xâm nhập sâu vào đất địch để
phát hiện địch và thu thập tin tức tình báo.
Tới
khoảng cuối năm 1967, toàn lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa tổng cộng có khoảng gần
100 trại Lực Lượng Ðặc Biệt, đa số nằm dọc theo biên giới Lào-Việt và
Miên-Việt. Vì địa thế chiến lược rất quan trọng của những trại biên phòng này,
Cộng quân luôn luôn dùng đủ mọi cách để tiêu diệt. Nhiều trận đánh dữ dội đã
xảy ra tại các trại như: Lang Vei, Thường Ðức, và Khâm Ðức tại Vùng 1 Chiến
Thuật, hoặc Ðức Cơ, Plei Me, Plei Djereng, Plateau Gi, Ðồng Xoài tại Vùng 2,
Bến Sỏi, Tống Lê Chân, Trảng Sụp, Chí Linh ở Vùng 3 và Cái Cái, Thường Thới,
Tịnh Biên tại Vùng 4.
Cho tới năm 1970, Hoa Kỳ chuẩn bị
rút quân, khởi đầu giai đoạn Việt Nam hóa chiến tranh nên các trại Lực Lượng
Ðặc Biệt cũng lần lượt được chuyển giao cho Quân Lực VNCH. Lực Lượng Dân Sự Chiến Ðấu theo
kế hoạch được sát nhập vào binh chủng Biệt Ðộng Quân để trở thành những đơn vị
Biệt Ðộng Quân Biên Phòng. Vì mỗi trại
Lực Lượng Ðặc Biệt thường có vào khoảng từ 300 đến 400 người nên được biến cải
thành một tiểu đoàn Biệt Ðộng Quân Biên Phòng. Trong khoảng thời gian từ
ngày 27 Tháng Tám, năm 1970 cho đến 15 Tháng Giêng, năm 1971, tổng cộng có tất
cả 49 trại Lực Lượng Ðặc Biệt được biến cải thành các Tiểu Ðoàn Biệt Ðộng Quân
Biên Phòng. Nếu tính theo từng Vùng Chiến Thuật, con số này được phân chia như
sau: Vùng 1 có 11 trại, Vùng 2 có 15 trại, Vùng 3 có 12 trại, và Vùng 4 có 11
trại.
Tuy trước đây có chừng 100 trại
Lực Lượng Ðặc Biệt, nhưng chỉ chuyển giao có 49 trại vì có một số trại bị đóng
cửa, quân số được bổ sung cho những đơn vị còn lại. Sau khi được chuyển giao,
những dân sự chiến đấu trong các trại Lực Lượng Ðặc Biệt không còn là dân sự do
Hoa Kỳ tuyển mộ, mà chính thức trở thành quân nhân trong Quân Lực VNCH.
Trại Tống Lê Chân thuộc Vùng 3
Chiến Thuật được thành lập vào đầu năm 1967 cùng với trại Prek Klok tại vùng
Chiến Khu C của Việt Cộng.
Vì chận ngay yết hầu nên ngay từ khi thành lập, các trại này đã bị địch quân đe
dọa thường xuyên. Trong hệ thống Lực Lượng Ðặc Biệt, trại Tống Lê Chân mang ám
danh A-334 và được biến cải thành trại Biệt Ðộng Quân Biên Phòng vào ngày 30
tháng 11 năm 1970.
Toàn thể quân số trong trại lúc đó có 318 người (gồm 292 người nguyên thuộc Dân
Sự Chiến Ðấu và các sĩ quan cùng hạ sĩ quan Quân Lực VNCH mới được bổ nhiệm tới
để chỉ huy) trở thành Tiểu Ðoàn 92 BÐQ Biên Phòng thuộc hệ thống chỉ huy của
Biệt Ðộng Quân/Quân Lực VNCH.
Tiền đồn cô đơn
Trại
Tống Lê Chân trấn giữ một địa điểm quan yếu, chận ngay đường vào khu Tam Giác
Sắt và án ngữ vùng Mỏ Vẹt, Lưỡi Câu thuộc Cam Bốt. Ðây là những an toàn khu và
cũng là đại bản doanh Cục R của Việt Cộng, giống như hai mũi dao nhọn chĩa vào
cạnh sườn Quân Khu 3. Trong các trận hành quân vượt biên của Quân Ðoàn 3 do Ðại
Tướng Ðỗ Cao Trí chỉ huy vào năm 1970, trại Tống Lê Chân đã đóng một vai trò
quan trọng trong nhiệm vụ phát hiện và diệt địch. Căn cứ được thiết lập trên
một ngọn đồi cao chừng 50 thước, trông xuống hai con suối nhỏ dân địa phương
gọi là Takon và Neron. Ðây là những lạch nước khởi nguồn của sông Saigon chảy
qua Dầu Tiếng, Bến Súc, Phú Cường v.v… Tống Lê Chân, như trên đã nói là một
trong chuỗi trại Dân Sự Chiến Ðấu do Lực Lượng Ðặc Biệt thiết lập dọc theo biên
giới Việt-Miên thuộc lãnh thổ Quân Khu 3.
Về
vị trí, trại Tống Lê Chân nằm trong vùng ranh giới của hai tỉnh Tây Ninh và
Bình Long, cách An Lộc chừng 15 cây số về hướng Tây Nam và mũi nhọn của chiếc Mỏ Vẹt
chứng 13 cây số về hướng Ðông Nam. Dưới
chân căn cứ là con đường 246 nối liền Chiến Khu C và Chiến Khu D của Việt Cộng.
Ðây cũng là trục giao liên Nam-Bắc huyết mạch nối liền bản doanh của Cục R Việt
Cộng bên Cam Bốt và vùng Dầu Tiếng với Khu Tam Giác Sắt của Cộng quân.
Với
vị trí chiến lược vô cùng quan trọng có thể kiểm soát được các trục giao liên
Nam-Bắc và Ðông-Tây của Cộng quân tại vùng biên giới, lại trấn giữ sườn Tây cho
thị trấn An Lộc, Tống Lê Chân như chiếc gai nhọn cần phải nhổ bằng mọi giá trên
sa bàn trận liệt của địch.
Vào
mùa Hè năm 1972, cùng với các trận cường tập có pháo binh và chiến xa nặng của
Cộng quân vào vùng Lộc Ninh, Chơn Thành và An Lộc, các căn cứ biên phòng lân
cận Tống Lê Chân như Thiện Ngôn, Katum, Bù Gia Mập đã phải di tản. Tống Lê Chân
chơ vơ còn lại như một hải đảo cô đơn giữa biển người Cộng quân trùng điệp.
Tứ bề thọ địch
Nhằm
mục đích mở rộng đường giao liên cũng như giữ bí mật các cuộc chuyển quân xâm
nhập từ biên giới Miên-Việt vào lãnh thổ Quân Khu 3, ngày 10/5/1972, Cộng quân dồn lực lượng đánh biển người vào căn cứ Tống
Lê Chân quyết nhổ cái gai trước mắt. Quyết san bằng căn cứ, địch quân dùng
đại pháo 130 ly cùng với đủ loại súng cối, sơn pháo bắn phủ đầu như mưa vào căn
cứ theo đúng chiến thuật lấy thịt đè người “tiền pháo hậu xung.” Trận pháo kích
khốc liệt này chính thức mở đầu cho gần hai năm trời vây hãm.
Sau
loại pháo vòng cầu, nhiều đợt pháo cấp tập bắn thẳng vào Tống Lê Chân như muốn
san bằng căn cứ nhỏ bé nằm lẻ loi trên ngọn đồi. Trong khi đó, một rừng phòng
không từ thượng liên đến cao xạ 37 ly, 57 ly và cả hỏa tiễn tầm nhiệt thuộc sư
đoàn Pháo Phòng Không tân lập 377 khóa kín không phận khiến các phi cơ không
thể nào tới gần để yểm trợ. Sau những đợt pháo kích dữ dội, Tiểu Ðoàn 200 (tiểu
đoàn độc lập) của Việt Cộng lãnh nhiệm vụ tấn công vào Tống Lê Chân với sự yểm
trợ của các đơn vị bộ đội thuộc hai Công Trường 7 và 9.
Tuy
bị bao vây và cô lập, các chiến sĩ Mũ
Nâu của Tiểu Ðoàn 92 BÐQ đã bình tĩnh bố trí trong các giao thông hào đào
sâu trong lòng đất chờ địch ngay khi các quả đạn pháo kích đầu tiên rơi vào căn
cứ. Một đơn vị đặc công địch theo sát những trái pháo mở đường đã xâm nhập được
vòng đai phòng thủ bên ngoài. Những chiến xa hạng nặng T-54 của Cộng quân yểm
trợ cũng nã đạn như mưa rất chính xác khiền tình hình có vẻ nguy kịch. Nhưng
quân trú phòng vẫn không nao núng vì rất tin tưởng vào hệ thống bố phòng vững
chãi và nhất là bãi mìn dầy đặc bao quanh căn cứ.
Dưới
sự chỉ huy đầy kinh nghiệm của Thiếu Tá
Lê Văn Ngôn (tiểu đoàn trưởng), các chiến sĩ Biệt Ðộng Quân vẫn chưa khai
hỏa. Họ chờ bộ đội chủ lực địch xung phong mới bắt đầu nổ súng. Quả nhiên, khi
thấy không bị bắn trả, Cộng quân bắt đầu tràn vào căn cứ vì tưởng quân trú
phòng đã bị chết hết hay mất tinh thần vì các đợt pháo kích ác kiệt cũng như vì
chiến xa với đại bác 100 ly trực xạ. Ðúng lúc đó, các chiến sĩ Mũ Nâu mới đồng
loạt khai hỏa. Từng đợt “biển người” của Cộng quân bị bất ngờ nhưng vì đã tiến
tới quá gần không kịp tìm nơi ẩn trú nên bị đốn ngã như rạ.
Sau
đợt tấn công đầu tiên bị thiệt hại nặng, địch lui ra để pháo binh tiếp tục nã
vào căn cứ, sau đó bộ binh lại tấn công. Sau nhiều đợt xung phong vô hiệu quả,
cuối cùng Cộng quân phải rút lui, bỏ lại hàng trăm xác chết phơi thây trên hàng
rào phòng thủ.
Cũng
trong thời gian này, các mặt trận lớn khác tại vùng hỏa tuyến, Tây Nguyên, An
Lộc bùng lên dữ dội với những cuộc đụng độ đẫm máu của một Mùa Hè Ðỏ Lửa. Trận
đánh tại Tống Lê Chân tuy là một chiến thắng lớn của các chiến sĩ Biệt Ðộng
Quân nhưng không được nhiều người biết tới. Nhưng từ khi cuộc “thử lửa” ban đầu
bị thất bại nặng nề, Cộng quân biết rằng không thể dễ dàng nuốt chửng Tống Lê
Chân nên họ chủ trương dùng chiến thuật tiêu hao, bao vây chặt chẽ và pháo kích
thường xuyên với đặc công xâm nhập quấy phá. Bắc Việt tin rằng chiến trường An
Lộc lân cận có tầm mức quan trọng hơn và nếu đạt được chiến thắng, Tống Lê Chân
không cần phải đánh cũng sẽ tự tan rã. Cuộc bao vây dài nhất trong quân sử bắt
đầu.
Cứ
như vậy, tiền đồn Tống Lê Chân bị Cộng quân vây chặt. Ðịch pháo kích thường
xuyên vào căn cứ, trong khi màng lưới phòng không dầy đặc cắt đứt nguồn tải
thương và tiếp vận duy nhất bằng phi cơ. Thoạt tiên, các phi cơ vận tải C-130
của Không Quân Việt Nam đã phải bay rất cao để thả dù tiếp tế khiến nhiều kiện
hàng bay lạc ra ngoài, rơi vào tay Cộng quân.
Theo lời kể lại của một hồi chánh
viên, vào khoảng Tháng Sáu, năm 1973, Cộng quân đã tổ chức một đại đội có nhiệm
vụ chuyên đi “lượm dù” để lấy đồ tiếp tế. Vì vậy, đã có dư luận từ các nguồn
tin ngoại quốc cho rằng đôi bên đã ngầm thỏa thuận để các vận tải cơ được tự do
thả dù mà không bị phòng không bắn lên, miễn là quân trú phòng không bắn vào
toán Cộng quân lượm dù bên ngoài. Sau này, khi rút tỉa kinh nghiệm, Không Quân
VNCH đã hoàn chỉnh được kỹ thuật thả dù tiếp tế nên số lượng đồ tiếp vận thất
thoát không còn đáng kể.
Riêng
các phi cơ trực thăng, phương tiện duy nhất để tản thương hay chở quân tăng
viện không thể nào bay lọt lưới phòng không dầy đặc của địch. Nhiều toán trực
thăng đã liều lĩnh bay vào Tống Lê Chân chẳng những không đạt được nhiều thành
công, lại bị thiệt hại khá nặng. Trong khoảng thời gian từ Tháng Mười, năm 1973
đến cuối Tháng Giêng, năm 1974, có khoảng 20 phi vụ trực thăng nhằm tản thương
và tiếp tế cho Tống Lê Chân, nhưng chỉ có 6 trực thăng hạ cánh được, trong số
này có 3 chiếc bị bắn hư hại trên bãi đáp.
Cuối Tháng Mười Hai, năm 1973, một trực thăng Chinook CH-47
cũng bị bắn rơi khi hạ cánh. Ðây là chiếc trực thăng thứ 13 bị trúng đạn phòng
không địch chỉ nội trong Tháng Mười Hai, năm 1973. Thiệt hại về phía Không Quân
VNCH gồm 9 chết, 36 bị thương. Tới Tháng Giêng, năm 1974 tức là một năm sau khi
ký kết hiệp định ngưng bắn, vẫn còn có 12 chiến sĩ Biệt Ðộng Quân bị thương
nặng vẫn chưa được tản thương khỏi căn cứ.
XIN BẤM
"READ MORE" ĐỂ ĐỌC TIẾP
Ngưng chiến kiểu Việt
Cộng
Tuy
căn cứ Tống Lê Chân bị Cộng quân khởi sự tấn công vào Tháng Năm, 1972, nhưng bị
vây hãm và tấn công dữ dội nhất vào lúc thỏa ước nhưng bắn được thi hành tại
Việt Nam theo khuôn khổ Hiệp Ðịnh Paris. Ðây cũng là một điểm đặc biệt có một
không hai trong cuộc chiến tại Việt Nam cũng như trong lịch sử chiến tranh thế
giới: một hiệp ước ngưng bắn bị vi phạm ngay sau khi vừa ký kết. Cộng quân, có lẽ đang cay cú vì thất bại
chua cay không chiếm được An Lộc, nay cố chiếm một mảnh đất khỉ ho cò gáy gần
biên giới Việt-Miên để có một chỗ cho Cục R ra mắt.
Trong
lúc toàn thể thế giới thở phào nhẹ nhõm vì ngòi lửa chiến tranh tại Việt Nam có
thể đưa đến hiểm họa chiến tranh giữa hai khối Tư Bản và Cộng Sản không còn
nữa, thì tại Tống Lê Chân, Tiểu Ðoàn 92 BÐQ vẫn đơn độc ngày ngày hứng pháo và
giành giựt với Cộng quân từng thước đất để sống còn. Tuy Cộng quân công khai vi
phạm thỏa ước ngưng bắn, nhưng người bạn đồng minh Hoa Kỳ của Việt Nam Cộng Hòa
vẫn dửng dưng không hề có một lời phản đối dù lấy lệ, dường như còn say men
rượu mừng vì đã tìm thấy “ánh sáng ở cuối đường hầm.”
Dĩ
nhiên họ cũng chẳng có một phản ứng hay hành động tích cực nào thuận lợi cho
Việt Nam Cộng Hòa. Ngay cả Ủy Hội Quốc Tế Kiểm Soát Ðình Chiến cũng không can
thiệp. Vì vậy, trước những vi phạm trắng trợn và lộ liễu của Cộng quân tại Tống
Lê Chân, trong phiên họp ngày 17 Tháng Ba, năm 1973, trưởng phái đoàn Việt Nam
Cộng Hòa là tướng Dư Quốc Ðống đã phải đặt vấn đề Tống Lê Chân lên bàn hội nghị
với ba giải pháp như sau:
1- Cử một tổ Liên Hợp Quân Sự bốn
bên đến Tống Lê Chân để điều tra tại chỗ các sự vi phạm.
2- Nếu phe Cộng Sản phản đối, sẽ yêu
cầu Ủy Ban Kiểm Soát Ðình Chiến can thiệp.
3- Yêu cầu các đơn vị Cộng quân
quanh Tống Lê Chân không được bắn lên phi cơ của Ủy Ban Ðình Chiến.
Dĩ
nhiên đề nghị hợp lý của phái đoàn Việt Nam Cộng Hòa bị phe Cộng Sản phản đối
vì chính họ là kẻ vi phạm. Trần Văn Trà, trung tướng trưởng phái đoàn Mặt Trận
Giải Phóng Miền Nam (MTGPMN) cố ý vắng mặt để Ðại Tá Ðặng Văn Thu thay thế. Ông
Thu một mặt vu khống chính Việt Nam Cộng Hòa mới là phe vi phạm ngưng bắn, một
mặt tự coi là không đủ thẩm quyền quyết định nên yêu cầu mở một cuộc họp khác
để bàn về Tống Lê Chân với sự hiện diện của Trần Văn Trà. Về các đề nghị thứ
hai và thứ ba của phái đoàn Việt Nam Cộng Hòa, phe Cộng Sản cũng “nhất trí”
phản đối, ngoài ra còn dọa dẫm các thành viên trong Ủy Hội Quốc Tế rằng tình
hình tại Tống Lê Chân “chưa rõ rệt” nên họ không bảo đảm an ninh cho phái đoàn
cũng như phi cơ của Ủy Hội.
Tóm
lại, cả phe Cộng Sản trong Ủy Ban Liên Hiệp và Ủy Hội Quốc Tế đều đồng thanh
tránh né việc điều tra vi phạm ngưng bắn tại Tống Lê Chân, lúc thì chờ chỉ
thượng cấp quyết định, khi lại không bảo đảm an ninh.
Ðến
ngày 23 Tháng Ba, năm 1973 tức là chỉ còn 4 hôm nữa là hết hạn 60 ngày làm việc
của Ủy Ban Liên Hiệp bốn bên, phái đoàn Hoa Kỳ mới yêu cầu chiếu lệ Canada là
chủ tịch Ủy Hội Quốc Tế điều tra về vụ Tống Lê Chân. Phía Việt Cộng đưa Ðại Tá
Võ Ðông Giang ra thảo luận với Ðại Tá Lomis của Gia Nã Ðại và thỏa thuận cử sĩ
quan liên lạc của MTGPMN theo Ủy Hội Quốc Tế tới Tống Lê Chân vào ngày 24 Tháng
Ba, 1973. Nhưng đó cũng chỉ là mánh lới tiểu xảo cố hữu của Cộng Sản: tới ngày
hẹn, viên sĩ quan liên lạc này đã “trễ trực thăng” nên máy bay của Ủy Hội Quốc
Tế không đi Tống Lê Chân được.
Như
vậy, với sự tráo trở và lọc lừa cố ý của Cộng Sản, việc điều tra tại Tống Lê
Chân đã không bao giờ được thực hiện. Số phận của Tống Lê Chân đành phó thác
cho định mệnh và Tiểu Ðoàn 92 BÐQ phải tự chiến đấu một mình để sống còn.
Vòng vây siết chặt
Suốt
năm 1973 kể từ ngày ngưng bắn, trong lúc Việt Cộng giở thủ đoạn hèn hạ tại bàn
hội nghị, Tống Lê Chân bị bao vây chặt chẽ và bị tấn công hàng chục lần nhưng
vị trí vẫn đứng vững như một khúc xương khó nuốt. Nhả ra không được vì bị Tống
Lê Chân chận nghẹn ngay yết hầu, nuốt vào thì không xong vì các chiến sĩ Mũ Nâu
rất kiên cường không chịu nhượng bộ một tấc đất, Cộng quân chỉ còn cách bao vây
“nội bất xuất, ngoại bất nhập.” Tuy phòng không địch dầy đặc bao quanh căn cứ
nhưng phi cơ Việt Nam Cộng Hòa đôi khi vẫn liều lĩnh bay lọt qua màng lưới của
tử thần để tản thương và tiếp tế. Việc tiếp tế cho Tống Lê Chân bằng dù khá
hiệu quả, nhưng vì chu vi phòng thủ quá hẹp nên có một số đồ tiếp liệu bị lọt
vào tay địch.
Qua năm 1974, trong khi các phái đoàn “kiểm
soát” tranh luận giằng co, tình hình tại Tống Lê Chân ngày càng nguy ngập sau
cả năm trời bị bao vây. Thời gian càng trôi qua, phần bất lợi càng nghiêng về
phía quân trú phòng. Bị cả sư đoàn địch quân phong tỏa chặt chẽ và bị tấn công
thường xuyên, quân số Biệt Ðộng Quân ngày càng hao hụt không được bổ sung. Lúc này, Tiểu Ðoàn 92 BÐQ chỉ còn lại 255
người, trong số đó có nhiều thương binh. Việc tiếp tế lại không được đầy đủ
vì phi cơ thả dù bị phòng không chận bắn. Về mặt tinh thần cũng sa sút phần nào
vì bị vây hãm quá lâu ngày và áp lực liên miên . Tuy vậy, Tống Lê Chân vẫn còn
đứng vững như một biểu tượng hùng hồn cho lòng quả cảm và sức chiến đấu kiên
cường của các chiến sĩ Biệt Ðộng Quân.
Nhưng
để giữ vững Tống Lê Chân, Quân Lực VNCH tính ra đã phải trả một giá quá đắt: sự
thiệt hại về nhân mạng mỗi ngày một cao, việc dùng phi cơ để yểm trợ và thả dù
tiếp tế đã trở thành một gánh quá nặng cho Không Quân Việt Nam lúc đó phương
tiện không còn được dồi dào như lúc Hoa Kỳ còn tham chiến. Hơn nữa, tuy Tống Lê
Chân chiếm giữ một vị trí khá quan trọng nhưng vẫn chỉ là một tiền đồn nên giá
trị quân sự không thể so sánh với các căn cứ chính cần phải bảo vệ khác, do đó
không nhất thiết phải giữ bằng mọi giá. Vì không thể chia bớt lực lượng để yểm
trợ Tống Lê Chân, đã đến lúc Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn 3 phải có một quyết định dứt
khoát để giải quyết vấn đề Tống Lê Chân để chấm dứt tình trạng bất lợi.
Do
đó, vào ngày 23 Tháng Ba, 1973,
Tướng Phạm Quốc Thuần, Tư Lệnh Quân Ðoàn 3 đề nghị với Bộ Tổng Tham Mưu Quân
Lực VNCH chọn một trong ba giải pháp sau đây:
1- Mở một cuộc hành quân cấp sư đoàn
từ An Lộc để giải tỏa áp lực, tăng cường, thay thế hay di tản Tiểu Ðoàn 92 BÐQ
tại Tống Lê Chân.
2- Cho phép thương lượng với Cộng
quân, giao Tống Lê Chân cho chúng để đổi lấy sự di tản an toàn của các chiến sĩ
Mũ Nâu trú phòng. 3- Cho lệnh Tiểu Ðoàn 92 BÐQ được di tản khỏi căn cứ bằng
những toán nhỏ để tránh bị tiêu diệt hoàn toàn.
Về
giải pháp 1, theo tình hình lúc đó, toàn bộ vùng Lai Khê, An Lộc chỉ có đơn độc
Sư Ðoàn 5 chống giữ, hiện đang phải đương đầu với các Công Trường 5, 7 và 9 của
Cộng quân. Vì vậy, ngay cả việc giữ an ninh trục lộ huyết mạch 13 cũng còn khó
khăn, chưa đủ quân số, nói chi đến việc mở đường tới tận Tống Lê Chân để tăng
viện? Hơn nữa, dù một sư đoàn có thể đảm đương trọng trách tiếp viện, nhưng
kiếm đâu ra sư đoàn này trong lúc các đại đơn vị Quân Lực VNCH tuy đã phải phân
tán rất mỏng nhưng cũng vẫn chưa đủ để trám vào những vùng quan trọng Hoa Kỳ
vừa rút quân để lại?
Như
vậy, giải pháp 1 coi như không thể thực hiện được. Nhưng nếu giải pháp 1 bất
thành vì lý do quân sự thì giải pháp 2 cũng thiếu thực tế vì lý do chính trị.
Nếu “bàn giao” Tống Lê Chân cho Cộng quân, hậu quả tai hại về chính trị sẽ
không thể lường được. Quân và dân Miền Nam sẽ vô cùng hoang mang. Tổng Thống
Thiệu sẽ rất khó ăn khó nói vì mới hô hào “dành dân chiếm đất” trước đây không
lâu. Vả lại, nếu giao Tống Lê Chân cho Cộng quân, việc này có thể sẽ trở thành
tiền lệ đưa tới nhiều cuộc bàn giao kiểu Tống Lê Chân khác.
Do
đó, tuy đề nghị ba giải pháp, nhưng tướng
Thuần biết rõ chỉ còn một con đường khả trợ duy nhất: đó là cho phép Tiểu Ðoàn 92 BÐQ rút khỏi Tống Lê Chân.
Nhưng quyết định rút bỏ này không phải là không có hậu quả nghiêm trọng về quân
sự cũng như chính trị. Hơn nữa, việc rút quân qua vòng vây trùng điệp của Cộng
quân cũng không phải là điều dễ dàng. Chính vì những lý do này mà Bộ Tư Lệnh
Quân Ðoàn 3 phải hội ý trước với Bộ Tổng Tham Mưu. Rất có thể, ngay Bộ Tổng
Tham Mưu cũng không quyết định được, mà việc rút quân phải do chính tổng thống
cho phép.
Trong
khi chờ đợi quyết định dứt khoát từ trung ương, tình hình tại Tống Lê Chân trở
nên hết sức căng thẳng và sôi động từng giờ, từ trầm trọng đến nguy kịch. Bị
bao vây cả năm trời, thiếu lương thực, thiếu đạn dược, quân số hao hụt, thương
binh ngày càng nhiều không được di tản, bị pháo liên miên, đặc công đánh phá
ngày đêm khiến Tiểu Ðoàn 92 BÐQ ngày càng suy yếu. Tuy nhiên, các chiến sĩ Mũ
Nâu vẫn kiên cường giữ vững căn cứ bằng mọi giá. Và cuộc bao vây dài nhất trong
quân sử vẫn tiếp tục.
Tử thủ đến cùng
Ðể giảm bớt phần nào áp lực vô
cùng nặng nề của khoảng 3 sư đoàn địch quanh Tống Lê Chân, vào ngày 23 Tháng Bảy, 1974, Không Quân Việt Nam
Cộng Hòa bay trên 30 phi vụ dội bom vào các vị trí Cộng quân trên trận địa.
Nhưng phòng không địch rất dầy đặc nên phi cơ oanh tạc không mấy hiệu quả.
Ngoài ra, lực lượng địch quá đông nên chúng vẫn không chịu rút lui để tránh
thiệt hại mà ngược lại còn gia tăng cường độ tấn công để sớm thanh toán mục
tiêu.
Trong
khoảng thời gian liên tiếp 3 ngày từ 22
đến 24 Tháng Ba, 1974, Cộng quân dùng đủ loại đại pháo 130 ly, hỏa tiễn 122 ly,
súng cối 82 ly, v.v… nã hơn 1,000 quả đạn vào tiền đồn Tống Lê Chân nhỏ bé, nơi
có khoảng 300 chiến sĩ Tiểu Ðoàn 92 BÐQ đang bị vây hãm. Tuy phi cơ được
gọi đến oanh kích và thả trái sáng yểm trợ, nhưng hỏa lực phòng không vô cùng
dữ dội của Sư Ðoàn Phòng Không 377 địch với các loại hỏa tiễn tầm nhiệt SA-7,
đại bác 57 ly, 37 ly và thượng liên đã đan một màng lưới lửa đầy đặc quanh Tống
Lê Chân khiến mọi hoạt động của phi cơ đều vô hiệu.
Bên
trong trại, các chiến sĩ Mũ Nâu chỉ còn cách co mình chịu pháo. Nhiều công sự
phòng thủ cũng như vị trí chiến đấu bị hư hại vì cơn mưa pháo. Tuy nhiên, Trung
Tá Lê Văn Ngôn tuy mới 25 tuổi nhưng dầy dạn kinh nhiệm chiến trường vẫn bình
tĩnh đôn đốc và ra lệnh cho binh sĩ trực thuộc chuẩn bị phản công sau mỗi đợt
pháo kích. Quả nhiên, liên tiếp trong hai đêm 21 và 22 Tháng Ba, 1974, sau khi
“tiền pháo,” khoảng một trung đoàn bộ binh địch “hậu xung” dữ dội cả bốn phía
định san bằng tiền đốn nhỏ bé bị vây hãm đã lâu ngày. Nhưng Tiểu Ðoàn 92 BÐQ
bắn trả dữ dội, tuy đạn dược khan hiếm nhưng họ tác xạ rất chính xác, đẩy lui
nhiều đợt tấn công biển người.
Có
lúc vì Cộng quân quá đông, các chiến sĩ Mũ Nâu bắn không xuể nên một số đã lọt
vào lớp hàng rào phòng thủ. Nhiều trận cận chiến bằng lựu đạn diễn ra ác liệt.
Quân trú phòng được lợi thế vì trú ẩn trong các hầm hố kiên cố nên đã gây thiệt
hại nặng cho địch quân. Cuối cùng, trước tinh thần chiến đấu dũng mãnh và can
trường của Tiểu Ðoàn 92 BÐQ, địch đành ôm hận rút rui để lại nhiều xác đồng bọn
và đủ loại vũ khí.
Tuy
vẫn giữ vững được vị trí nhưng tình trạng bên trong căn cứ vô cùng bi đát.
Thương binh mỗi lúc một nhiều thêm vì không được tản thương. Ðạn dược gần cạn
vì các trận đánh liên tục, lương thực thiếu thốn vì không được tiếp tế đã nhiều
ngày, ngay cả đến nước uống cũng khan hiếm. Hơn nữa, sau mỗi đợt tấn công bị
thất bại, Cộng quân lại điên cuồng pháo kích dữ dội hơn.
Trước
tình thế nguy ngập như chỉ mành treo chuông, Trung Tá Ngôn biết rõ nếu không
được tản thương, tăng viện, yểm trợ và tiếp tế hữu hiệu ngay tức khắc, việc giữ
Tống Lê Chân hầu như không thể làm nổi. Trong lúc đó, biết được tình trạng cực
kỳ bi đát của quân trú phòng, Cộng quân chung quanh đồn dùng loa phóng thanh uy
hiếp tinh thần và kêu gọi Tiểu Ðoàn 92 BÐQ đầu hàng.
Nhưng
Trung Tá Ngôn vẫn không rối trí. Một
mặt ông ra lệnh cho các binh sĩ bố phòng chặt chẽ để nhất định đánh tới người
cuối cùng. Mặt khác, ông gửi công điện
khẩn cấp cho Ðại Tá Nguyễn Thành
Chuẩn, chỉ huy trưởng Liên Ðoàn 3 Biệt Ðộng Quân tại An Lộc yêu cầu thả dù
tiếp tế gấp khí giới, đạn dược và lương thực cho quân trú phòng. Trung Tá Ngôn
cũng yêu cầu gửi quân tiếp viện và gia tăng sự yểm trợ của phi cơ. Nhưng các
phi cơ dù liều lĩnh cũng không thể nào bay qua được hàng rào phòng không và
quân tiếp viện cũng chẳng bao giờ tới. Tuy nhiên, dù trong tình trạng tuyệt
vọng, các chiến sĩ anh dũng của Tiểu Ðoàn 92 BÐQ vẫn nhất quyết không hàng
địch. Trung Tá Ngôn còn cho biết nếu bị địch tràn ngập, ông sẽ yêu cầu dội bom
phá hủy Tống Lê Chân để cùng chết với địch quân.
Nhận
được công điện cầu cứu của Tiểu Ðoàn 92 BÐQ, Ðại Tá Chuẩn lập tức chuyển lời
yêu cầu tiếp viện lên Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn 3. Nhưng Tướng Thuần cho biết vẫn
chưa nhận được chỉ thị nào của Bộ Tổng Tham Mưu về đề nghị tăng viện hay di tản
căn cứ. Trong lúc Tống Lê Chân như ngọn đèn leo lét trước trận cuồng phong, có
thể bị tràn ngập bất cứ lúc nào, nhưng lệnh trên vẫn là “chờ”!
Cho tới giờ phút này, quân số
tại Tống Lê Chân gồm có 254 Biệt Ðộng Quân, 4 binh sĩ Pháo Binh, 12 lao công
chiến trường và 7 nhân viên phi hành đoàn trực thăng bị bắn rơi. Tuy tổng cộng
gần 300 nhân mạng nhưng thật sự hầu hết trong số này đã bị thương ít nhất một
lần. Hơn nữa, bị vây hãm lâu ngày trong tình trạng thiếu thốn nên khả năng
chiến đấu đã bị yếu đi rất nhiều.
Về
phía Cộng quân, tuy đã bị thiệt hại rất nặng nhưng lại được tăng viện và bổ
sung nhanh chóng từ các an toàn khu bên Cam Bốt nên sức mạnh coi như không suy
giảm. Trong lúc chỉnh đốn hàng ngũ, địch ngơi tấn công nhưng vẫn pháo kích dữ
dội. Rút kinh nghiệm những trận tấn công trước đã bị thất bại chua cay, Cộng
quân biết tuy Tiểu Ðoàn 92 BÐQ sẽ chiến đấu cho đến phút chót nhưng như cá nằm
trong rọ nên chúng thong thả nghỉ ngơi dưỡng quân, cố ý để quân trú phòng kiệt
quệ tới mức tối đa mới tấn công dứt điểm để đỡ bị thiệt hại. Và chuyện phải đến
đã đến!
Những đợt cường tập
liên tiếp
Ròng rã trong các đêm 24, 25 và 26 Tháng Ba, 1974, Cộng
quân sau khi bổ sung đầy đủ đã liền tiếp mở những đợt xung phong biển người ồ
ạt quyết san bằng Tống Lê Chân. Tuy đã gần kiệt sức, các chiến sĩ Mũ Nâu vẫn
cắn răng chờ địch trong những giao thông hào đổ nát vì đạn pháo kích. Trung Tá
Ngôn và các cấp chỉ huy cũng sát cánh trong các công sự phòng thủ với thuộc
cấp, ra lệnh phải tiết kiệm từng viên đạn, chỉ được bắn khi thật “chắc ăn.” Giá
của mỗi viên đạn phải là một quân thù.
Rồi
hàng hàng lớp lớp Cộng quân tràn tới giữa tiếng hò la man dại “hàng sống, chống
chết!” Ðúng lúc này, các chiến sĩ Biệt Ðộng Quân mới cắn răng siết chặt cò
súng. Ðịch đã xâm nhập hàng rào kẽm gai phòng thủ ngoài cùng, nhưng lập tức bị
khựng lại vì gắp phải bức tường lửa từ trong bắn ra rất chính xác. Xác địch
chồng chất trên trận địa hay vất vưởng trên hàng rào kẽm gai. Nhưng địch quá
đông, nhất định “dứt điểm” nên họ vẫn liều lĩnh xung phong.
Chẳng
bao lâu, bộ đội Cộng Sản tràn tới hàng rào thứ hai. Lúc này một loạt mìn
“Claymore” nổ tung khiến nhiều xác giặc tan thành mảnh vụn. Tiếng súng nổ,
tiếng la hét cùng với mùi thịt, mùi máu, mùi thuốc súng tạo nên một khung cảnh
khủng khiếp. Nhiều chiến sĩ Biệt Ðộng Quân quá mệt mỏi và căng thẳng gần như
ngất xỉu vì những trận tấn công liên tiếp đêm này qua đêm khác nhưng vẫn không
rời tay súng.
Ðịch
quân quá đông, lớp này chết, lớp khác đạp lên xác đồng bạn tiến tới. Trong đêm
tối, phi cơ không thể yểm trợ hỏa lực. Dù có ban ngày đi nữa cũng khó bay qua
màng lưới phòng không. Trên bầu trời đen kịt, chỉ có vài đóm hỏa châu do phi cơ
bay thật cao thả xuống, không đủ soi sánh trận địa, trông leo lét và mong manh
như số phận của gần 300 chiến sĩ đang tử chiến với quân thù.
Ðịch
đã tràn gần tới hàng rào phòng thủ sau cùng, đôi bên giáp mặt. Các chiến sĩ Mũ
Nâu buông những cây súng đỏ nòng, với tay tìm lựu đạn. Nhiều tiếng nổ chát chúa
giúp hàng loạt những con thiêu thân thực hiện lời thề “sinh Bắc tử Nam.” Lại
một loạt lựu đạn thứ hai tung ra giết hết những tên địch còn sống sót trong đợt
xung phong này. Bên ngoài hàng rào, không còn những bóng người đầu đội nón cối,
chân đi dép râu di động như trước.
Sau
đó, mặt trận bỗng nhiên im bặt không còn những tiếng la hét hô xung phong man
dại. Những cán binh địch ngoài xa may mắn còn sống sót biết không thể xâm nhập
căn cứ nên vội vã lẩn vào bóng đêm. Ðợt xung phong cuối cùng của địch đã bị
chận đứng tuy chúng đã lọt được gần tới hàng rào phòng thủ sau cùng.
Một
lần nữa, Cộng quân tuy đông hơn nhưng lại bị thất bại chua cay trước sự quả cảm
và tinh thần chiến đấu gan dạ vô song của các chiến sĩ Tiểu Ðoàn 92 BÐQ. Cùng
với lời nguyền “Thà chết không hàng giặc,” căn cứ Tống Lê Chân tuy tan nát như
Tiểu Ðoàn 92 đang tan nát, nhưng vẫn đứng vững như một phép lạ. Vỏn vẹn một
tiểu đoàn Quân Lực VNCH vẫn giữ vững được vị trí sau khi bị bao vây hàng năm
trời với nhiều đột tấn công của hàng sư đoàn địch?
Các
“cố vấn” Hoa Kỳ còn sót lại tại Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn 3 đã vô cùng kinh ngạc.
Trước đây họ đã cho rằng số phận của Tống Lê Chân coi như đã “xong,” vì theo
ước tính của những người lạc quan nhất, ngay cả quân đội Hoa Kỳ với hỏa lực
khủng khiếp của thảm bom “Arc Light” B-52 và đại pháo 175 cũng khó lòng giữ nổi
Tống Lê Chân trong vòng vài ba tuần. Phía Cộng quân lại càng sững sờ vì họ
tưởng sẽ ăn tươi miếng mồi béo bở nhưng lại gặp phải cục xương khó nuốt. Sau
nhiều cuộc tấn công thất bại và bị thiệt hại nặng nề, Cộng quân đành ôm hận,
lập lại sa bàn trận địa, bổ sung quân số, rút ưu khuyết điểm chờ ngày rửa hận.
Trong
những ngày kế tiếp và suốt tuần lễ đầu tiên của Tháng Tư, 1974, Cộng quân không
dám tấn công mạnh vào Tống Lê Chân, chỉ dùng đặc công quấy rối nhưng mức độ
pháo kích vẫn không giảm. Nhưng “mãnh hổ nan địch quần hồ,” các chiến sĩ Mũ Nâu
đã không còn sức chiến đấu. Ðến lúc này, thượng cấp vẫn chưa có quyết định dứt
khoát về việc tăng viện hay rút bỏ Tống Lê Chân. Cả Phủ Tổng Thống, Bộ Tổng
Tham Mưu lẫn Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn 3 đều lâm vào thế “tiến thối lưỡng nan” không
có cách nào giải quyết vấn đề. Sau 17 tháng trời ròng rã bị vây hãm, pháo kích
và tấn công liên miên Tiểu Ðoàn 92 BÐQ hầu như không còn phương cách nào để
thoát khỏi viễn ảnh bị tiêu diệt.
Trận đánh sau cùng
của Tiểu Ðoàn 92 BÐQ
Nhưng
tình trạng tạm thời sống lây lất không còn kéo dài được bao lâu. Tống Lê Chân
như một con cá phơi mình trên thớt không còn phương cách tự vệ, nằm chờ lưỡi
dao chém xuống. Và lưỡi dao đã rơi.
Ngày 11 Tháng Tư, 1974, sau khi tái điều nghiên, bổ sung
lực lượng, Cộng quân mở những cuộc tấn công ác liệt quyết đạt được chiến thắng
bằng mọi giá. Trong ngày chúng pháo kích mù mịt không dưới 1,000 quả đạn vào
căn cứ đã tan nát trong các cuộc tấn công trước. Tiểu Ðoàn 92 BÐQ lúc này đã
kiệt lực, hết đạn, một số lớn binh sĩ lại bị thương nên không còn sức chống trả
những đột tấn công mãnh liệt của đối phương.
Nhưng
dù tình thế đã đến lúc tuyệt vọng nhưng Trung Tá Ngôn vẫn không ra lệnh rời bỏ
căn cứ khi chưa có lệnh của thượng cấp. Trước những loạt đạn pháo kích chính
xác và các đợt tấn công biển người, vị tiểu đoàn trưởng anh hùng biết chắc
không thể nào phòng thủ được nữa nên khẩn cấp yêu cầu thượng cấp cho lệnh di
tản trước khi căn cứ bị địch quân tràn ngập. Trung Tướng Thuần không rõ có tham
khảo ý kiến của Bộ Tổng Tham Mưu hay Phủ Tổng Thống hay không, đã ra lệnh cho
Trung Tá Ngôn phải “tử thủ bằng mọi giá!”
Nhưng
Tiểu Ðoàn 92 BÐQ sau hơn một năm trời bị
vây hãm, bị pháo kích và tấn công liên miên bởi một lực lương địch quân đầy
đủ vũ khí và đông hơn nhiều lần, lại thiếu đạn dược, lương thực, quân số hao
hụt không được bổ sung nên đã chẳng còn giá nào để trả! Các chiến sĩ Mũ Nâu
không còn nhiều chọn lựa: ở lại căn cứ chắc chắn sẽ bị chết hay bị bắt hết vì
không còn cách nào ngăn chận địch quân hoặc đầu hàng để tìm con đường sống.
Nhưng theo truyền thống hào hùng của binh chủng Mũ Nâu, dù trong lúc thập tử
nhất sinh cũng vẫn không hàng địch. Trung Tá Ngôn đã đưa ra một quyết định vô
cùng táo bạo: dùng toàn lực phá vòng vây, rời bỏ căn cứ, tuy có thể bị chết hết
nhưng may ra sẽ đưa đơn vị tới một nơi an toàn.
Sau
khi quyết định xong, vào khoảng nửa đêm
11 Tháng Tư, căn cứ Tống Lê Chân báo cáo nguy cơ sắp bị địch quân tràn ngập.
Sau đó, mọi giấy tờ, tài liệu quan trọng đã được thiêu hủy đúng theo kế hoạch
di tản để không bị lọt vào tay địch. Lúc đó, chỉ có phi cơ bay thật cao thả hỏa
châu yểm trợ. Tiểu Ðoàn 92 BÐQ yêu cầu phi cơ ngưng thả trái sáng để đơn vị
nương theo bóng tối rời bỏ căn cứ. Dưới sự chỉ huy gan dạ của vị tiểu đoàn
trưởng trẻ tuổi và tinh thần kỷ luật của toàn thể binh sĩ, Tiểu Ðoàn 92 BÐQ đã
di tản trong vòng trật tự, mang theo tất cả những thương binh. Liên lạc vô
tuyến với Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn 3 bị gián đoạn ngay sau đó.
Mãi
tới 9 giờ sáng ngày hôm sau 12 Tháng Tư,
Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn 3 mới bắt được liên lạc với Tiểu Ðoàn 92 BÐQ trên tần số
hành quân lúc đó đã rời khỏi Tống Lê Chân đang trên đường di chuyển về hướng An
Lộc, khoảng trên 15 cây số về hướng Ðông Bắc. Cuộc hành trình xuyên qua
rừng rậm dưới sự rình rập của Cộng quân, lại phải mang theo nhiều thương binh
nên vô cùng gian nan vất vả.
Suốt
đêm, Tiểu Ðoàn 92 BÐQ phải kịch chiến với địch, vừa đánh vừa tìm đường rút lui
khiến thêm 14 binh sĩ tử thương, 34 người nữa bị thương. Cuối cùng, may mắn như
một phép lạ, Tiểu Ðoàn 92 BÐQ tới được
An Lộc tương đối an toàn, chỉ có
thêm 4 chiến sĩ can đảm ở lại chận đường truy kích của địch quân để thành phần
chủ lực rút lui anh dũng hy sinh. Tất cả các thương binh, kể cả xác chết của
những người bị thiệt mạng đề được mang về.
Biệt Ðộng Quân: Sát!
Nhìn chung, Tống Lê Chân chỉ là
một tiền đồn nơi đèo heo hút gió gần biên giới Việt-Miên không được nhiều người
biết đến. Tiểu Ðoàn 92 BÐQ lại là một đơn vị tương đối trẻ trung mới được thành
lập từ năm 1970. Vị tiểu đoàn trưởng, Trung Tá
Lê Văn Ngôn, con Cọp đầu đàn của Tiểu Ðoàn 92 BÐQ cũng là một sĩ quan rất trẻ
mới 25 tuổi, xuất thân khóa 21 Võ Bị Ðà Lạt. Trận đánh tại Tống Lê Chân cũng không phải là một cuộc đụng độ
lớn. Cuối cùng, Tống Lê Chân lại rơi vào tay địch.
Như
vậy, về mặt quân sự, rõ ràng trận đánh tại Tống Lê Chân cũng chỉ “tầm thường”
như những trận đánh cùng tầm cỡ khác, kết thúc bằng việc quân trú phòng phải di
tản. Tuy nhiên, về phương diện tinh thần chiến đấu và sức chịu đựng phi thường
của các chiến sĩ Mũ Nâu, Tống Lê Chân đã vượt xa những trận đánh lớn nhỏ khác
trong quân sử với nhiều điểm rất đặc biệt. Ðây là cuộc bao vây lâu dài nhất
trong quân sử, một trận dánh trong chiến cuộc Việt Nam mà lực lượng đôi bên
chênh lệch nhất và sau cùng, một cuộc lui binh thần tình nhất do một vị tiểu
đoàn trưởng trẻ tuổi nhất, can trường nhất chỉ huy.
Cuộc bao vây dài nhất
trong quân sử
Kể
từ khi trại Tống Lê Chân bị Cộng quân khởi sự uy hiếp vào năm 1972 cho tới khi
Tiểu Ðoàn 92 BÐQ phải di tản vào Tháng Tư năm 1974, căn cứ đã bị bao vậy ròng
rã 17 tháng trời. Vòng vây của địch vô cùng chặt chẽ khiến “nội bất xuất, ngoại
bất nhập,” kể cả đường hàng không. Chẳng những việc gửi quân tăng viện, tản
thương và tiếp đạn dược, lương thực v.v… đều bị giới hạn nhỏ giọt mà ngay cả
đến cặp lon trung tá thăng cấp đặc cách
ngoài mặt trận của tiểu đoàn trưởng Lê Văn Ngôn cũng phải thả dù vào trong
trại, không có người gắn lon và việc “rửa lon” truyền thống của nhà binh có
lẽ đã được thực hiện bằng máu của Cộng quân.
Ðiều
này làm chúng ta liên tưởng đến chiếc lon thăng cấp của Ðại Tá De Castries,
người hùng của đoàn quân viễn chinh Pháp tại Ðiện Biên Phủ vào năm 1954 cũng đã
được thả dù vào khu lòng chảo. Nhưng De Castries trước kia đã không quá cô đơn
và bị bao vây ngột ngạt như Lê Văn Ngôn tại Tống Lê Chân vì ít ra cũng có một
số quân nhẩy dù tăng viện. Ngoài ra, De Castries conợ có những “nàng hầu” thân
yêu như Béatrice, Éliane, Huguette, Dominique để… tâm sự. Còn Lê Văn Ngôn và
Tiểu Ðoàn 92 BÐQ chỉ có độc nhất một quả đồi trơ trụi với vòng cao độ không quá 50 thước trên bản đồ UTM, một vị trí vuông vức
mỗi bề không quá 300 thước để sống chết ôm ấp ròng rã gần một năm rưỡi
trời! Cuộc bao vây ngặt nghèo tới nỗi vào những ngày tháng chót, cả đến việc
thả dù tiếp tế cũng bị gián đoạn, còn nói gì đến việc tản thương hay tiếp viện
bằng trực thăng.
Về
các cuộc bao vây nổi tiếng khác trong chiến sử, Ðiện Biên trước kia cũng chỉ
kéo dài 57 ngày. Ðịa ngục Khe Sanh, niềm tự hào của Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ
cũng chỉ bị bao vây dăm ba tháng, nhưng với thảm bom dầy đặc đêm ngày của B-52,
và lúc nào cũng có ba tầng phi cơ chiến thuật chờ sẵn trên không để giội bom,
binh sĩ trú phòng coi như được đi nghỉ mát dưỡng quân theo tiêu chuẩn lính Việt
Nam, vì họ không thiếu một thứ gì, kể cả nước đá để uống giải khát!
Trong kỳ Ðệ Nhị Thế Chiến,
Stalingrad lừng danh cũng chỉ bị quân Ðức bao vây gần ba tháng. Tobruk của
người Anh cũng chỉ cần tử thủ hơn 8 tháng. Còn
Tống Lê Chân? Suốt 17 tháng trường ròng rã trong những điều kiện tăng viện và
tiếp vận khó khăn nhất. Như vậy, sức chịu đựng của người lính Việt Nam Cộng
Hòa phải được coi là bền bỉ siêu đẳng vô địch.
Lực lượng chênh lệch
một trời một vực
Về tương quan lực lượng đôi bên,
khi xảy ra trận đánh tại Tống Lê Chân, phía Cộng quân có các Sư Ðoàn 5, 7 và 9 cùng Sư Ðoàn Pháo Phòng Không 377
tân lập, cộng thêm dăm ba tiểu đoàn địa phương và đặc công “lẻ tẻ.” Tuy
Công Trường 5 đã bị thiệt hại khá nặng trong những cuộc hành quân vượt biên
đánh sang vùng Lưỡi Câu, Mỏ Vẹt trước đây của Quân Lực VNCH, nhưng đã được tăng
viện nhanh chóng và thường lẩn quất tại vùng biên giới để uy hiếp các trại Biệt
Ðộng Quân Biên Phòng.
Ngoài
ra, Công Trường 7 cùng với Tiểu Ðoàn
Pháo 22 và Tiểu Ðoàn Ðặc Công 28, sau khi tràn ngập các căn cứ Chí Linh nằm
trên Liên Tỉnh Lộ 13 giữa Chơn Thành và Ðôn Luân, cũng đè nặng áp lực trên
quãng đường bộ từ Lai Khê đến An Lộc. Riêng Công Trường 9 của Cộng quân với 3
trung đoàn còn đầy đủ quân số vừa từ Cam Bốt xâm nhập được dùng làm mũi dùi
tiến công chính đánh Tống Lê Chân, sau khi đã buộc các trại Biệt Ðộng Quân Biên
Phòng khác như Thiện Ngôn, Katum, Bù Gia Mập phải di tản. Tống Lê Chân là căn
cứ biên phòng duy nhất còn lại trong vùng vì tất cả binh sĩ đều tình nguyện ở
lại giữ trại. Tiểu Ðoàn 92 BÐQ với quân
số vỏn vẹn khoảng 300 người, đã bị hàng sư đoàn địch quân thay nhau tấn
công và vây hãm hàng năm trời không được tăng viện. Thế mà các chiến sĩ Mũ Nâu
vẫn anh dũng bền gan chiến đấu, nhất định không hàng địch! Ðây quả là một thành
tích phi thường ngoài sức tưởng tượng!
Cuộc lui binh thần
tình
Sau
gần một năm rưỡi trời giữa vòng vây trùng điệp, lại bị tấn công liên miên,
đương nhiên Tiểu Ðoàn 92 BÐQ phải kiệt sức. Cho tới khi tình trạng tuyệt vọng,
đơn vị chỉ còn đường rút lui để bảo toàn lực lượng nhưng cũng không quên dùng
chất nổ phá hủy doanh trại, không để lọt vào tay Cộng quân. Sau đó, tuy bị truy
kích, nhưng các con Cọp Rừng Mũ Nâu đã về được tới An Lộc với tổn thất nhẹ
không ngờ: trong số 277 binh sĩ gồm nhiều thương binh, một số lớn đã về được An
Lộc. Ðây là một thành quả quá sức mong đợi cho một cuộc hành quân lui binh sâu
trong lòng địch. Với tài chỉ huy khôn khéo, tinh thần kỷ luật và sức chiến đấu
bền bỉ gan dạ, các chiến Tiểu Ðoàn 92 BÐQ đã làm nhiều người ngạc nhiên và thán
phục khi rút quân thành công trong một hoàn cảnh vô cùng khó khăn, bi đát.
Cuộc
lui quân thành công ngoài sức tưởng tượng này đã khiến dư luận phía Hoa Kỳ nghi
ngờ rằng Tiểu Ðoàn 92 BÐQ đã “thương lượng” với Cộng quân, bằng lòng bàn giao
căn cứ Tống Lê Chân để đổi lấy việc rút lui an toàn. Quả thật, việc Tiểu Ðoàn
92 BÐQ phá được vòng vây về được đến An Lộc phải coi như một phép lạ nên “dư
luận” thương thuyết không phải là không có lý. Vả lại, đây cũng là một trong ba
giải pháp mà Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn 3 đã đề nghị lên thượng cấp cách đó không
lâu. Ngoài ra, rất có thể những lời đồn đại nói trên là do Cộng quân tung ra để
đỡ bị mất mặt vì Tiểu Ðoàn 92 BÐQ đã vượt khỏi vòng vây như chỗ không người.
Thật
sự, Tiểu Ðoàn 92 BÐQ đã chỉ giết giặc chứ không bao giờ thương lượng với chúng
và cuộc rút lui thành công vì tinh thần kỷ luật cũng như khả năng chiến đấu
tuyệt vời của các chiến sĩ Mũ Nâu. Bằng cớ xác thực nhất là chính những tài
liệu bắt được sau đó tại mặt trận cùng những lời khai của tù hàng binh Cộng
quân đã cho thấy không hề có chuyện “thương lượng.” Một hồi chánh viên tham dự
trận đánh sau cùng vào đêm 12 Tháng Tư tại Tống Lê Chân đã thuật lại khá chi
tiết về biến cố này.
Sau
trận pháo kích dữ dội, bộ binh địch có chiến xa yểm trợ đã mở các cuộc tấn công
mạnh. Tiểu Ðoàn 92 BÐQ không còn đạn dược và nhất là không có vũ khí chống
chiến xa nên bắt buộc phải rời bỏ vị trí. Tống Lê Chân bị bỏ ngỏ từ đêm 12
Tháng Tư nhưng vì hàng rào phòng thủ quá kiên cố, lại có nhiều bãi mìn, hơn nữa
Cộng quân sợ Tiểu Ðoàn 92 BÐQ còn tử thủ sẽ gây cho chúng nhiều thiệt hại như
những lần trước nên mãi tới ngày 13 Tháng Tư chúng mới vào được trại. Lúc đó,
các chiến sĩ Mũ Nâu đã rời xa căn cứ trên đường về An Lộc. Tống Lê Chân đã bị
đặt chất nổ phá hủy. Ðịch chỉ tìm thấy xác của 2 Biệt Ðộng Quân và bắt sống một
người khác.
Một
bằng chứng rõ ràng khác là bản báo cáo của Cộng quân bị Quân Lực VNCVH tịch
thu. Tài liệu này tiết lộ một đơn vị Cộng quân có nhiệm vụ chận đường rút lui
của Tiểu Ðoàn 92 BÐQ đã bất tuân thượng lệnh, không bố trí quân tại những vị
trí đã ấn định vì sợ bị phi pháo Việt Nam Cộng Hòa tiêu diệt. Cuối cùng, bản
báo cáo còn đưa ra nhận xét rằng trong trận đánh tại Tống Lê Chân, tinh thần
binh sĩ Tiểu Ðoàn 92 BÐQ rất cao, còn cao hơn cả nhiều đơn vị chính qui của
Cộng quân có nhiệm vụ tấn công.
Ðường vào lịch sử
Trận
đánh tại Tống Lê Chân chính thức chấm dứt vào ngày 15 Tháng Tư, năm 1974 khi
binh sĩ cuối cùng của Tiểu Ðoàn 92 BÐQ về tới An Lộc. Trước đó, vào ngày 13 Tháng Tư,
phi cơ của Không Quân Việt Nam Cộng Hòa đã bay 19 phi vụ thả bom đánh vào lực
lượng Cộng quân tại Tống Lê Chân. Tuy trận đánh đã chấm dứt từ lâu, nhưng qua
cuộc bao vây dài nhất trong quân sử và cuộc lui binh thành công mỹ mãn, huyền
thoại của Tiểu Ðoàn 92 BÐQ tại Tống Lê Chân vẫn sống mãi. Các chiến sĩ Mũ Nâu dưới
quyền chỉ huy của Trung Tá Lê Văn Ngôn đã tô đậm một nét son cho truyền thống
hào hùng của binh chủng Biệt Ðộng Quân và viết một trang sử huy hoàng trong pho
quân sử Quân Lực VNCH.
SOURCE:
.
No comments:
Post a Comment