Đọc Một Đoản
Văn - Trung Tá Lê Văn Ngôn trấn thủ Tống Lê Chân như thế nào?
HIGHLIGHT:
Tống Lê
Chân bị tấn công kể từ ngày 10/5/1972.
Toàn bộ đơn
vị rút khỏi căn cứ vào đêm 11/4/1974.
Trung tá
Lê văn Ngôn đã đưa Tiểu Đoàn 92 Biệt
Động Quân về đến thị xã An
Lộc vào ngày 16/4/1974.
*****
Viết để ngợi ca và
vinh danh 275 chiến sĩ Mũ Nâu của Tiểu Đoàn 92 Biệt Động Quân và người bạn cùng
khóa, cố Trung Tá Lê Văn Ngôn. Xin
nguyện cầu hương linh của anh ngàn thu yên nghỉ! Anh chính là một biểu tượng của Tống Lê Chân, là niềm hãnh
diện của cựu sinh viên sĩ quan khóa 21 Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam-Đà Lạt.
Nhìn lại toàn cuộc chiến mùa Hè của năm 1972, từ Dakto-Tân Cảnh xuống
tới An Lộc-Bình Long rồi ra tận Quảng Trị kiêu hùng, Trung Tá Lê Văn Ngôn đã
nổi lên như một người hùng. Anh sinh năm 1941 tại thị xã Vĩnh Long, trong một
gia đình nho giáo, cha và người anh cả của Ngôn đều chọn nghề dạy học và rất
được sự kính trọng của phụ huynh lẫn học sinh trong vùng.
Trung
Tá Lê Văn Ngôn vào đầu năm 1971 khi mới từ Lực Lượng Đặc Biệt
chuyển sang Biệt
Động Quân, lúc 24 tuổi mang quân hàm Đại úy.
Ông được vinh thăng Trung tá khi
mới 27 tuổi và qua đời trong lao tù cải tạo ở tuổi 30.
(Hình: Facebook General
War - Thế Giới Đại Chiến)
Như
bao thanh niên khác cùng thế hệ, Ngôn đành phải xếp bút nghiên, giã từ giảng
đường đại học, nơi mà tuổi trẻ luôn miệt mài đầu tư cho tương lai tươi sáng của
mình. Vì anh ý thức được bổn phận và trách nhiệm của người trai trong thời quốc
biến, cho nên, cuối năm 1964, anh tình nguyện gia nhập khóa 21 Trường Võ Bị
Quốc Gia Việt Nam, như là một sự dấn thân để phục vụ lúc tổ quốc lúc đang cần.
Vào
thời điểm ấy, Cộng Sản đã có những toan tính lọc lừa, ngang tàng xua quân vào
để mở rộng cuộc chiến xâm lược miền Nam. Những trận đánh lớn đã thường xuyên
xảy ra trên khắp bốn vùng chiến thuật và đó chính là nguyên nhân dẫn đến sự
tham chiến ồ ạt của Quân Lực Hoa Kỳ tại Việt Nam vào năm 1965.
Lê
Văn Ngôn tốt nghiệp ngày 26 Tháng Mười Một, 1966, với cấp bậc thiếu úy hiện
dịch và anh chọn Binh Chủng Lực Lượng
Đặc Biệt để phục vụ. Do nhu cầu phát triển của Quân Lực, vài năm sau đó,
binh chủng này bị giải tán và được sát nhập vào Biệt Động Quân. Ngôn được bổ
nhiệm giữ chức vụ chỉ huy trưởng trại
Lực Lượng Đặc Biệt Biên Phòng Tống Lê Chân vào năm 1972, rồi đơn vị này được
cải danh thành Tiểu Đoàn 92 Biệt Động Quân và Ngôn trở thành vị tiểu đoàn trưởng.
Nói
về căn cứ Tống Lê Chân, nơi này là
vùng đất của hai xã Minh Đức và Minh Tâm thuộc
tỉnh Bình Long, là một trại biên phòng, nằm cách biên giới Việt-Miên 13 km về
phía Nam và cách thị xã An Lộc 15 km về hướng Đông Bắc, nghĩa là hết tầm
yểm trợ của đại bác 155 ly. Nguyên thủy, cứ điểm ấy mang một tên địa phương là
Tonlé Tchombé, sau đó, chỉ huy trưởng đầu tiên của trại này là Thiếu Tá Đặng
Hưng Long đã đổi thành Tống Lê Chân. Trại được bao quanh với tám lớp hàng rào
kẽm gai, cộng thêm với hệ thống mìn bẫy dầy đặc, tự nó đã rất vững vàng trong
việc phòng thủ, cũng đã góp phần đẩy lui nhiều cuộc tấn công điên cuồng của
giặc Cộng. Ngự trị trên một ngọn đồi yên ngựa, cao khoảng 50 mét, nhìn xuống
hai dòng suối nhỏ là Takon và Neron và có một phi trường nằm trên ngọn đồi thấp
của dãy yên ngựa này mà vận tải cơ C.123 có thể đáp được.
Tống Lê Chân bị tấn công kể từ ngày 10 Tháng Năm, 1972. Vào thời điểm khốc liệt ấy, những dàn phòng không dày đặc của địch thực sự đã kiểm soát được vòm trời của căn cứ, gây không ít trở ngại cho Không Quân VNCH khi phải thực hiện các phi vụ tiếp tế và yểm trợ.
Tống Lê Chân bị tấn công kể từ ngày 10 Tháng Năm, 1972. Vào thời điểm khốc liệt ấy, những dàn phòng không dày đặc của địch thực sự đã kiểm soát được vòm trời của căn cứ, gây không ít trở ngại cho Không Quân VNCH khi phải thực hiện các phi vụ tiếp tế và yểm trợ.
Giống
như tình trạng tại An Lộc, trong những ngày đầu bị vây hãm, mọi tiếp tế lương
thực và đạn dược đều được thực hiện bằng cách thả dù. Nhưng hầu như chỉ một nửa
rơi vào vòng phòng thủ của ta và phần còn lại thì rớt xuống vùng của địch. Thế
mà Tống Lê Chân vẫn đứng lừng lững, dũng cảm và hiên ngang với nhiệm vụ chận
đứng mọi sự chuyển quân của Việt Cộng từ Cambodia xuống phía Nam, cứ điểm này chính là một vị trí chiến lược,
trở thành một tiền đồn trọng yếu trong việc phòng thủ Sài Gòn.
Tống
Lê Chân được lực lượng Hoa Kỳ thành lập, họ xây dựng một hệ thống giao thông
hào chằng chịt, rất thích ứng với chiến thuật phòng thủ. Từ hệ thống có sẵn
này, Ngôn ra lệnh cho binh sĩ đào ra những ngách nhỏ, kích thước vừa đủ trú ẩn
cho mỗi cá nhân, vừa dùng để quan sát địch, vừa tránh pháo, lại vừa chiến đấu
rất hữu hiệu.
Thật
vậy, Tiểu Đoàn 92 Biệt Động Quân và
Ngôn đã cùng chung nhịp thở với Tống Lê Chân trong 510 ngày bị vây hãm, họ phải chiến đấu trong những điều kiện vô
cùng khó khăn. Họ phải tiết kiệm từng viên đạn và thậm chí ngay cả từng hớp
nước uống! Với hơn 20 lần bị tấn công, bảy lần bị đánh đặc công, 233 lần với
khoảng hơn 14,500 đạn pháo đủ loại đã dội vào căn cứ. Tống Lê Chân hiển nhiên
đã trở thành một trận chiến dai dẳng nhất.
Trong
suốt thời gian đó, Việt Cộng đã rót vô số bom đạn đủ loại, nướng không biết bao
nhiêu con thiêu thân cuồng tín vào mặt trận này. Đây là một bãi chiến trường mà
ban ngày cũng như ban đêm, đều bị choáng ngợp do mùi nồng nặc và khét lẹt của
thuốc súng. Nhưng bọn chúng cũng thất bại trước toan tính san bằng cứ điểm và
đã không đè bẹp được tinh thần chiến đấu kiên cường của những dũng sĩ Mũ Nâu.
Do đó, song song với việc tấn công hỏa lực, hằng ngày chúng đã phát động chiến
dịch chiêu dụ bằng cách dùng loa kêu gọi rã ngủ hay đầu hàng. Hẳn nhiên, đã có
phần tác động đến tinh thần chiến đấu của binh sĩ và gây ra không ít khó khăn
cho sự chỉ huy của Ngôn. Và “Ngôn cũng vô hiệu hóa chiến dịch ấy bằng nghệ
thuật chỉ huy và bằng sự can đảm của chính bản thân mình.”
Vài
hàng dưới đây, tôi muốn đưa lên vài trận đánh đã diễn ra qua nhiều cuộc chiến
khác nhau để chúng ta dễ dàng làm một sự so sánh và từ đó chúng ta có thể hãnh
diện mà vinh danh sức chịu đựng, tinh thần chiến đấu kiên cường của những người
lính trận miền Nam nói chung và của Tiểu Đoàn 92 Biệt Động Quân nói riêng.
Hồi
thời Đệ Nhị Thế Chiến, Quân Đức Quốc Xã rất hùng mạnh lúc bấy giờ, đã tấn công
thành phố Stalingrad kể từ ngày 17 Tháng Bảy, 1942, nhưng đến ngày 2 Tháng Hai,
1943, phải rút lui trong thảm bại. Tính ra thì sự chịu đựng của binh lính Nga
cũng chưa đến sáu tháng.
Cũng
vào thời kỳ này, quân đội Nhật tấn công cứ điểm Bataan ở Phi Luật Tân do lực
lượng Hoa Kỳ và Phi Luật Tân trấn giữ vào Tháng Mười Hai, 1941, và đến ngày 24
Tháng Bảy, 1942, Tướng Douglas MacArthur phải ra lệnh rút lui.
Quân
lực Anh và Khối Thịnh Vượng Chung Âu Châu trấn giữ Tobruk tại North Africa,
đương đầu với cuộc bao vây của liên quân Đức-Ý, do Tướng Erwin Rommel chỉ huy.
Trong trận này, quân đội Anh cũng chỉ cầm cự được từ ngày 11 Tháng Tư, 1941,
đến ngày 27 Tháng Mười Một, 1941, rồi bị thất thủ, nghĩa là chỉ khoảng 240
ngày.
Sinh viên sĩ quan Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt Lê Văn Ngôn năm 1965.
(Hình: tvbqgvn.org)
Còn
tại Việt Nam, quân Cộng Sản tấn công và bao vây quân đội Pháp tại Điện Biên Phủ
vào ngày 13 Tháng Ba, 1954, cho đến ngày 7 Tháng Năm, 1954, thì Pháp thua trận,
có nghĩa là chỉ giữ được cứ điểm này trong vòng 57 ngày.
Cận
kề bên Tống Lê Chân trong mùa đỏ lửa, với ý đồ muốn biến An Lộc thành bình địa,
Cộng quân cũng chỉ có khả năng bao vây thị xã này được 110 ngày, để sau cùng
phải gánh chịu một sự tổn thất rất nặng nề, vì rằng cả ba sư đoàn, đó là Sư Đoàn 5, 7 và 9 của địch đều bị tổn
thất rất nặng và phải rút qua bên kia biên giới Việt-Miên.
Chúng
ta rất hãnh diện về tinh thần hào hùng của các chiến hữu mũ nâu, Tiểu Đoàn 92
Biệt Động Quân đã anh dũng chiến đấu trong những điều kiện vô cùng nghiệt ngã
và đơn độc. Thật vậy, những chiến sĩ này và Lê Văn Ngôn đã lập nên một kỳ công
về lòng can đảm và sức đựng! Ngôn, vị Trung
tá trẻ (29 tuổi) của QLVNCH, dường như đã cột chặt tên anh và rực sáng lên
cùng với địa danh này. Trong nỗi gian nguy được tính theo từng giây phút, trong
cận kề cái chết, vị chỉ huy trẻ ấy đã mưu lược, dũng cảm và âm thầm lèo lái đơn
vị, luôn luôn sát cánh với thuộc cấp để giữ vững tinh thần, giữ lửa chiến đấu
cho nhau, cùng nhau ghì chặt tay súng trước một chiến trường vô cùng khốc liệt!
Đúng
vậy, một cuộc chiến đấu thật oanh liệt của các chiến sĩ mũ nâu, trong một hoàn
cảnh bất cân xứng về tương quan lực lượng đối đầu giữa hai bên! Tiểu Đoàn 92
Biệt Động Quân với 275 người đã cùng nhau vượt lên trên giới hạn tột cùng của
sự gian nguy bằng chính tinh thần trách nhiệm, danh dự và ý chí chiến đấu của
mỗi người lính VNCH.
Lê
Văn Ngôn và Tống Lê Chân trở thành một biểu tượng, đã hòa nhập với nhau như
bóng với hình, tạo nên một thành tích lẫy lừng, tô đậm thêm trang sử, mà vốn dĩ
đã quá lẫy lừng của binh chủng Biệt Động Quân nói riêng về lòng can đảm, sức
chịu đựng và tinh thần kỷ luật trong chiến đấu.
Được
biết, sau khi Trung Tướng Phạm Quốc Thuần về thay thế Trung Tướng Nguyễn Văn
Minh ngày 29 Tháng Mười, 1973, vị tân Tư Lệnh Quân III đã đệ trình lên Bộ Tổng
Tham Mưu một kế hoạch gồm hai giải pháp cho trại Tống Lê Chân:
-Nếu
tiếp tục duy trì căn cứ trọng yếu này thì phải khai thông một con đường từ thị
xã An Lộc đến Tống Lê Chân để đưa một đơn vị khác vào thay cho Tiểu Đoàn 92
Biệt Động Quân.
-Hoặc
là bỏ cứ điểm đó và Tiểu Đoàn 92 Biệt Động Quân âm thầm rút khỏi căn cứ, rồi
tìm cách bắt tay với các đơn vị bạn.
Vào
khoảng đầu năm 1974, Bộ Tổng Tham Mưu không còn bất cứ một lực lượng tổng trừ
bị nào nằm tại Thủ Đô để thực hiện kế hoạch thứ nhất, cho nên Tướng Thuần đã
cho phép Trung Tá Ngôn tùy nghi quyết định.
Với
một khoảng thời gian quá dài mà đêm ngày luôn trực diện với địch, hẳn đã vượt
ra ngoài sức chịu đựng của người lính. Cuối cùng, Ngôn cũng đành phải ngậm ngùi
để lại Tống Lê Chân phía sau lưng và toàn bộ đơn vị rút khỏi căn cứ vào đêm 11 Tháng Tư, 1974. Ngôn đã đưa Tiểu Đoàn
về đến thị xã An Lộc vào ngày 16 Tháng Tư với chỉ còn vỏn vẹn 196 chiến binh,
đặc biệt là có đến hai phi công chính và hai phi công phụ trong số này.
Tất
cả các tử sĩ đều được chôn cất ngay tại cột cờ chính của căn cứ. Cũng ghi nhận
thêm là đã có một chiếc Chinook, hai chiếc trực thăng UH1, một chiếc khu trục
và một chiếc quan sát L.19 bị bắn rớt và phải nằm lại tại chiến trường này.
Một
thời gian sau đó, Ngôn được điều động theo học Khóa 2/74 Bộ Binh cao cấp tại
Long Thành. Tốt nghiệp, Ngôn được thuyên chuyển về Sư Đoàn 5 Bộ Binh.
Vào
một buổi trưa nắng gắt của Tháng Ba, 1975, khi Trung Đoàn 8 thay thế nhiệm vụ,
Tiểu Đoàn của tôi rời vùng hành quân ở phía Bắc Bầu Bàng, nằm giữa Lai Khê và
Bến Cát.
Trên
đường trở về hậu cứ, tôi phải di chuyển qua căn cứ tiền phương của Trung Đoàn 8,
nơi đây là Bộ Chỉ Huy nhẹ của Ngôn. Ghé vào đó để thăm một người bạn mà kể từ
khi rời trường Mẹ (Trường Võ Bị Đà Lạt), đây chính là lần hôị ngộ đầu tiên với
Ngôn.
Ngôn
đứng đón tôi ở ngoài hầm chỉ huy, Thiếu Tá Đổng Duy Hùng, tiểu đoàn trưởng Tiểu
Đoàn 3/9, phải đứng nghiêm chỉnh chào Trung Tá Lê Văn Ngôn, trung đoàn phó
Trung Đoàn 8/Sư Đoàn 5, theo đúng quân kỷ. Sau đó, cả hai chúng tôi nhanh chóng
quay về với tình bằng hữu, trong vòng 30 phút cùng nhau hàn huyên, ngôn ngữ
trao đổi chỉ là “mày tao” rất thân thiết, rất tự nhiên của những người cùng một
khóa tại Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam. Chúng tôi ôn lại những kỷ niệm của một
thời thật đẹp khi còn là Sinh Viên Sĩ Quan với quá nhiều hoài bão. Thế mà mãi
cho đến ngày mất nước, hai chúng tôi vẫn không được may mắn để gặp lại nhau cho
lần kế tiếp.
Vài
sự kiện được ghi nhận quanh chiến sự diễn ra trong thời điểm Tống Lê Chân đỏ
lửa:
-Lúc
bấy giờ, Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn III có ý định rút bỏ 4 căn cứ: Thiện Ngôn, Katum,
Tống Lê Chân và Bù Gia Mập. Khi lệnh này truyền đến, Ngôn đã khẳng khái xin
được ở lại chiến đấu và nói rằng Biệt Động Quân chưa được đánh địch mà sao lại
phải rút lui! Tiếc quá, đừng nên rút. Câu hỏi tiếp theo là liệu có giữ nổi
không? Bằng mọi giá, tôi và tất cả binh sĩ đều tình nguyện ở lại với căn cứ
này. Đó là câu trả lời cương quyết của nguời chỉ huy và căn cứ đã đứng vững như
là lời hứa, mà người chỉ huy thì rất trẻ so với tuổi lính của anh.
-Có
một phi vụ từ phi trường Biên Hòa bay
vào tiếp tế cho Tống Lê Chân. Phi vụ này có nhiệm vụ mang quà tưởng thưởng
của quân dân miền Nam, lương thực đạn dược và cặp lon trung tá cho Ngôn. Đặc
biệt hơn nữa, người bay phi vụ này là bạn cùng khoá với Ngôn, Thiếu Tá Phi Công Trần Gia Bảo (Khóa 21 Đà
Lạt). Đây là một nghĩa cử rất anh hùng, bởi vì Bảo rất cảm thông, muốn chia
sẻ phần nào đó về sức chịu đựng phi thường và mang những nhu cầu cần thiết đến
cho đơn vị bạn. Do đó, Bảo đã bất chấp mọi hiểm nguy đang rình rập và tự tình
nguyện thực hiện chuyến bay. Được biết phi vụ này hầu như bay bằng kỹ thuật phi
cụ và gồm hai chiếc Lôi Điểu: Lôi Điểu 1 do Bảo điều khiển đáp trước, Lôi Điểu
2 phải bay vòng chờ Bảo rời Landing Zone mới nhào xuống. Nhưng chẳng may, chiếc
này bị va chạm làm cho hai người bị thương. Vì có yếu tố bất ngờ và lại bay
không đèn, nên chỉ ghi nhận được những tiếng súng bắn cầu âu của địch mà chẳng
hề hấn gì đến phi cơ.
-K21
Biệt Động Quân Lê Văn Ngôn ngày đêm tử thủ Tống Lê Chân giữa trùng điệp giặc
Bắc, K21 Không Quân Trần Gia Bảo liều mình bay vào lửa tiếp đạn cho Ngôn diệt
quân thù.
-Kẻ
thù muốn giết Ngôn ngay từ ngày khởi đầu của cuộc vây hãm, nhưng thực tế chứng
minh rằng họ đã thất bại. Sau biến cố đau thương của cả dân tộc vào Tháng Tư
Đen, cùng với những sĩ quan khác, Ngôn cũng bị tống vào địa ngục của trần gian
này và thêm một lần nữa để họ trả thù.
Ngôn
bị đọa đày cho đến hơi tàn lực kiệt! Trong khung trời ảm đạm của một ngày mùa
Đông buốt giá vào cuối năm 1977, tại
trại 1, Liên Trại 1, Đoàn 776 thuộc vùng Yên Bái và sau hơn hai tháng chịu đựng
từ căn bệnh ung thư gan quái ác kia, thế mà Ngôn chỉ được điều trị bằng
thuốc “thần dược trị bá bệnh xuyên tâm liên.”
Vào
ngày 19 Tháng Giêng, 1978, Ngôn đã vĩnh biệt cõi đời từ nơi ngục tù Yên Bái ấy, lạnh lùng, âm
thầm đi vào lòng đất mẹ, chẳng có một chiến hữu tiễn đưa, không có môt nén
nhang để sưởi ấm Hương Linh!
Ngôn
đã chết thật rồi, tức tưởi, đau thương và hẩm hiu đến tột cùng! Khóa 21 luôn
hãnh diện về Ngôn và chúng tôi đã dành nhiều phút im lặng trong những lúc hội
ngộ để mặc niệm và nguyện cầu Vong Linh của anh được ngàn đời yên nghỉ!
Rồi
qua những năm dài sau đó, mãi đến ngày 8 Tháng Ba, 1996, chị quả phụ Lê Văn Ngôn cùng hai người con đã lặn lội đến tận Yên Bái để mang xương cốt của người
chồng yêu quí về lại nơi chôn nhau cắt rốn, để được ấm áp bên mộ cha, mộ mẹ, bên
mộ ông bà, tổ tiên! Vợ chồng của Ngôn đã hội ngộ trong một hoàn cảnh như thế
đó! Quả là xé lòng qua cái thảm trạng tử biệt sinh ly này! Trên đường ôm cốt
chồng trở về, một bất hạnh khác lại ập xuống gia đình của chị, đứa con út bị
một tai nạn ngay tại Hà Nội và hiện đang sống vất vưởng với mảnh đời tàn phế!
Thương
thay cho thân phận của những ai đã trót làm vợ của người lính VNCH, nhất là
trong một thời loạn ly, lại phải sống tại một xã hội mà bọn quỷ đỏ đã có cả một
chính sách, chủ trương để gieo rắc và cổ võ cho sự hận thù. Sự bất hạnh đâu có
dừng lại tại đó!
Được biết người
chị ruột của Ngôn đã làm đơn bảo lãnh cho vợ con của Ngôn theo chương trình
H.O. Nhưng khi được phái đoàn Mỹ phỏng vấn tại Sài Gòn, thì gia đình này bị từ
chối chỉ vì có sự khác biệt về ngày khai tử qua lời khai giữa người chị và vợ
của Ngôn. Quả thật tội nghiệp, đúng là họa vô đơn chí!
Sau
Tháng Tư Đen, ngày tang tóc của cả một dân tộc, số phận của quý chị cũng đã gắn
liền với thảm họa ấy, cũng đau thương, cũng nổi trôi, cũng bềnh bồng và cũng
lắm thăng trầm như vận nước của của chúng ta.
Đổng Duy Hùng
Nguồn Người Việt
Đổng Duy Hùng
Nguồn Người Việt
Source:
No comments:
Post a Comment