Không phải chỉ khi nhảy ngang ra tác chiến Tướng Hiếu mới xử dụng
tới chiến xa/thiết vận xa. Chính khi còn là Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn 2, dưới
trướng Chuẩn Tướng Vĩnh Lộc, Đại Tá Hiếu
đã đóng vai trò chủ yếu trong việc thiết kế và điều động một thiết đoàn tiếp
cứu trại Lực Lượng Đặc Biệt Pleime tháng 10 năm 1965.
Trại LLĐB Pleime là một tiền đồn hẻo lánh cách biên giới Cam Bốt khoảng 40 cây số, cách Quốc Lộ 14, 20 cây số về
phía Tây và cách Pleiku khoảng 40 cây số về hướng Đông Nam. Trại này do một
lực lượng đặc biệt hỗn hợp Mỹ-Việt-Thượng trấn giữ : toán Operations Detachment
A-217 LLĐB Mỹ gồm 12 chiến sĩ, các toán LLĐB Việt tổng cộng gồm 14 chiến sĩ, và
đơn vị LLĐB Tiếp Cứu Thượng gồm 415 chiến sĩ thuộc các sắc tộc Jarai, Rhađê và
Bahnar.
Trước tháng 10 năm 1965, tiền đồn này không đóng một vai trò quan
trọng mấy và hầu như hoạt động cách biệt lập theo mô thức riêng của các đơn vị
Lực Lượng Đặc Biệt. Tuy nhiên nó bỗng dưng trở nên hết sức quan trọng khi các
cơ quan tình báo phối hợp các nguồn tin phát giác được kế hoạch chiến dịch Đông-Xuân của Tướng Võ Nguyên
Giáp.
Mục tiêu của chiến
dịch Đông-Xuân là cắt đôi Miền Nam và gồm 3 giai đoạn:
1. tấn chiếm trại Pleime;
2. tấn chiếm Pleiku;
3. tấn chiếm Qui Nhơn.
Tướng Võ Nguyên Giáp định dùng tới 3 Sư Đoàn Bắc Việt để thực hiện
ý đồ này. Tướng Bắc Việt Chu Huy Mân được giao trọng trách dùng một Sư Đoàn gồm
ba Trung Đoàn 32, 33 và 66 thực hiện giai đoạn 1, tấn chiếm trại LLĐB Pleime.
Kế hoạch Chiến dịch Tây
Nguyên của Tướng Chu Huy Mân như sau:
1. Trung Đoàn 33 BV vây hãm tiền đồn Pleime để nhử Quân Đoàn 2 đem
viện binh từ Pleiku kéo xuống;
2. Trung Đoàn 32 BV nằm phục kích đón chờ quân viện binh (một con
mồi ngon khi không được yểm trợ bởi hỏa lực của các căn cứ pháo binh đặt gần
bên);
3. sau khi triệt hạ viện binh, Trung Đoàn 32 BV trở đầu tiếp sức
Trung Đoàn 33 BV thanh toán trại Pleime;
4. đồng thời một khi tuyến phòng thủ của tỉnh Pleiku bị suy yếu vì
phải đưa quân tiếp cứu trại Pleime, Trung Đoàn 66 BV sẽ khởi sự tấn kích cầm
chừng Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 2, chờ cho Trung Đoàn 32 và 33 BV thanh toán xong
trại Pleime lên tiếp sức tấn chiếm tỉnh Pleiku, hoàn tất giai đoạn 2 của chiến
dịch Đông-Xuân.
Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 2 biết một mình Quân Đoàn sẽ không chống cự
nổi ý đồ to tát như vậy của Cộng Quân:
1. nếu tiếp cứu trại Pleime thì sa vào bẫy Việt Cộng (viện binh
chết, trại Pleime thất thủ, Pleiku nguy khốn);
2. bỏ mặc trại Pleime thì hậu quả rất tai hại về đòn tâm lý và rồi
Pleiku cũng sẽ bị nguy khốn. Thật là tiến thối lưỡng nan. Bộ Tổng Tham Mưu ở
Sài Gòn cầu cứu Quân Lực Hoa Kỳ. Tướng Westmoreland liền sai Sư Đoàn 1 Không Kỵ Mỹ hợp tác với Quân Đoàn
2 để bẻ gãy chiến dịch Đông Xuân của Tướng Võ Nguyên Giáp. Tướng Tư Lệnh Sư
Đoàn Không Kỵ 1 Hoa Kỳ Harry Kinnard liền đặt bản doanh tại An Khê, cách Pleiku
khoảng 10 cây số về phiá Đông.
Để hóa giải chiêu độc địa của Tướng Chu Huy Mân, Bộ Tư Lệnh Quân
Đoàn 2 bàn định kế hoạch với Sư Đoàn 1 Kỵ Binh Mỹ như sau:
1. Quân Đoàn 2 sẽ gửi một Chiến Đoàn từ Pleiku xuống tiếp cứu trại
Pleime từ mạn Bắc;
2. đồng thời sẽ phái một đơn vị Biệt Kích hỗn hợp Mỹ Việt tới trại
Pleime trước để tiếp sức với quân đồn trú bảo vệ trại đến khi chủ lực tiếp viện
quân tới;
3. Sư Đoàn 1 Kỵ Binh Mỹ sẽ gửi một Lữ Đoàn thay thế số quân đi
tiếp ứng bảo vệ tỉnh Pleiku;
4. đồng thời Sư Đoàn 1 Không Kỵ sẽ trực thăng vận nhiều pháo đội
rải rác tại các vị trí gần trận địa để yểm trợ cho Chiến Đoàn tiếp cứu khi hữu
sự.
Diễn tiến của trận đánh giải tỏa trại Pleime xảy
ra như sau:
Sáng ngày 19/10/1965, một toán tuần tiễu gồm 85
chiến sĩ Thượng cầm đầu bởi 2 chiến sĩ Mỹ phát xuất từ trại đi tảo thanh vùng
Tây Bắc trại. Trại được bảo vệ bởi 5 toán phục kích với 8 chiến sĩ mỗi toán và
bởi 2 tiền đồn với 25 chiến sĩ mỗi tiền đồn.
Tối ngày 19/10, một toán tiền thám Cộng quân lọt qua một vị trí
phục kích bắt đầu nổ súng vào tiền đồn phía nam của trại và thanh toán tiền đồn
này sau 20 phút giao tranh.
Nửa đêm ngày 19/10, Cộng quân bắt đầu tấn công vào trại với các đội toán xung kích
và các đoạn ống chứa chất nổ. Lính trại phản công lại với súng đại liên. Cả hai
bên đều dùng đến lựu đạn để tiêu diệt nhau.
Lúc 3 giờ 45 sáng ngày 20/10, phi cơ phản
lực dội bom lửa napalm khắp cùng ven trại.
Lúc 6 giờ sáng ngày 20/10, Cộng quân tấn công mạn Bắc của trại.
Các chiến sĩ Thượng đã phải xông ra khỏi hầm trú để cận chiến với địch quân mới
đẩy lui được chúng.
Lúc 7 giờ 30 sáng, một phi đội trực thăng tải thương có trực thăng
tác chiến tháp tùng đáp xuống trại để thả xuống một bác sĩ giải phẫu và chở
lính bị thương đi. Thình lình một trực thăng đang bay lượn bị súng phòng không
hạ rớt xuống rừng. Một toán LLĐB nhào ra tiếp cứu thì bị một ổ đại liên địch
quân bắn chận phải dội lại trại với một trung sĩ Mỹ bị tử thương. Trái lại,
toán tuần tiễu xuất phát trại từ ngày hôm trước được lệnh rút về trại lại bước
qua cổng trại được cách êm thấm.
Trưa ngày 20/10, Thiếu Tá LLĐB Charlie A. Beckwith, trưởng toán
Project DELTA, được 2 Đại Đội thuộc Tiểu Đoàn 91 Biệt Cách Dù QLVNCH tăng phái,
được lệnh tập họp tại phi trường Pleiku để lên đường tiếp cứu trại Pleime. Đội
Toán này tập họp đông đủ tại phi trường vào lúc 5 giờ chiều cùng ngày.
Đúng 5 giờ 20 chiều, một Chiến Đoàn, một lực lượng 1200 chiến binh
chỉ huy bởi Trung Tá Nguyễn Trọng Luật, gồm Trung Đoàn 3 Thiết Kỵ với 6 chiến
xa M41 và thiết vận xa M113, cùng thiết đoàn M8 chở lương thực, đạn dược và
săng nhớt, 2 khẩu đại bác howitzers 105 ly, Tiểu Đội Công Binh, Tiểu Đoàn 1 Bộ
Binh thuộc Trung Đoàn 42 và Tiểu Đoàn 21 và 22 Biệt Động Quân rời Pleiku từ từ theo Quốc Lộ 14 tiến xuống phiá
Nam hướng về trại Pleime. Trong khi đó, Trung Tướng Stanley Larsen, Tư Lệnh Lực
Lượng Dã Chiến 1, cho trực thăng vận một Tiểu Đoàn thuộc Sư Đoàn 1 Không Kỵ Mỹ
lên bảo vệ Pleiku.
Vì khan hiếm trực thăng, nên toán của Thiếu Tá Beckwith, chỉ được
trực thăng vận làm ba chuyến, mỗi chuyến gồm 3 trực thăng vào sáng ngày 21/10. Đội quân này được thả
vào rừng cách 8 cây số phía Nam trại Pleime. Họ đi quanh co trong rừng rậm, đến
giữa trưa thì chạm trán với một ổ đại bác không giựt Cộng quân. Họ chém vè trở
lui sâu vào rừng. Đến 5 giờ chiều thì họ chỉ còn cách trại có 35 phút. Họ dừng
chân đóng quân ven trại Pleime chờ đến sáng sẽ tiến vào trại.
Lúc 1 giờ 40 sáng ngày 22/10, một phi
cơ Skyraider A-1E bị bắn
hạ khi bay trên trại Pleime. Phi công nhảy dù ra được nhưng rồi biệt
tích hai ngày sau mới tìm được. Một phi cơ khác cũng bị bắn hạ, nhưng lần này
phi công được cứu vớt ngay.
Sáng sớm ngày 22/10, sau một trận giao tranh ngắn ngủi, các đội
toán của Thiếu Tá Beckwith tiến được vào trại Pleime và Thiếu Tá Beckwith trở nên Chỉ Huy Trưởng trại từ giờ phút đó.
Lúc 1 giờ trưa, một lực lượng gồm 3 Đại Đội xông ra khỏi trại để
khai quang một ngọn đồi kế bên trại. Lực lượng này liền bị một ổ súng đại liên
địch quân quật ngã, khiến cho Đại Úy LLĐB Thomas Pusser và 12 chiến sĩ Thượng
bị hạ, và vô số bị thương. Lực lượng này đành phải rút lui về trại.
Cũng trong ngày 22/10, toán Biệt Cách Dù QLVNCH xông ra trại tìm
cách triệt hạ hai ổ đại liên địch nhưng đều thất bại.
Ngày 23/10, lúc 2 giờ trưa, Tiểu Đoàn 22 Biệt Đông
Quân được trực thăng vận xuống một bãi đáp 2 cây số rưỡi phía Nam vị trí ổ phục
kích của Trung Đoàn 32 Bắc Việt, cùng với Chiến Đoàn tiếp viện từ phía Bắc đi
xuống tạo thành thế gọng kìm.
Chiều ngày 23/10, khoảng 6 giờ chiều khi Chiến Đoàn tiếp viện tiến
tới cây số 4 trên Hương Lộ 6C, cách trại Pleime 5 cây số, thì lọt vào ổ phục
kích của Trung Đoàn 32 Bắc Việt, dưới quyền chỉ huy của Trung Tá Nguyễn Hữu An,
Tư Lệnh Phó Mặt Trận B-3. Lúc đó Chiến Đoàn tiếp cứu chia ra làm hai cánh quân:
cánh quân đầu gồm các chiến xa và thiết vận xa M113; cánh quân cuối gồm các
thiết vận xa vận tải M-8 có hai Đại Đội Biệt Động Quân hộ tống, cánh quân này
đi sau cách cánh quân đầu khoảng 2 cây số. Tiểu Đoàn 635 Bắc Việt tấn công cánh
quân đầu và Tiểu Đoàn 344 Bắc Việt uy hiếp cánh quân cuối. Dưới sự yểm trợ của
các phản lực cơ F-100 và các trực thăng võ trang nã hỏa tiễn, bom và đạn liên
thanh vào các vị trí súng cối và đại bác không giựt của địch, các chiến xa M41
và thiết vận xa M113 của cánh quân đầu liền dàn hàng phản pháo dữ dội và mãnh
liệt gây tổn thương nặng cho phục kích quân. Sau hai giờ giao tranh Tiểu Đoàn
635 Bắc Việt phải tháo lui vào rừng.
Cánh quân cuối với hỏa lực yếu kém hơn bị Tiểu Đoàn 344 Bắc Việt
dùng đại bác không giựt, hỏa tiễn 90 ly và súng cối làm thịt. Cũng may là có
các phản lực cơ F-100 đến tiếp cứu thả bom napalm vào các vị trí Cộng quân và
bẻ gãy được lực lượng tấn công của Tiểu Đoàn 344 Bắc Việt và đẩy lui được chúng
xuống về hướng Nam dọc theo hương lộ 6C.
Vào 3 giờ sáng ngày 24/10, Tiểu Đoàn 966 trừ bị của
Trung Đoàn 32 Bắc Việt chia làm ba mũi dùi tấn công vào Chiến Đoàn tiếp viện.
Nhưng rồi địch quân cũng bị phản pháo dữ dội gây tổn hại nặng nề và lại đành
phải lủi vào rừng.
Đến khi mặt trời ló rạng vào sáng ngày 24/10, khi kiểm điểm tình
hình thì cánh quân đầu không bị mất chiến xa hay thiết vận xa nào. Nhưng cánh
quân cuối thì bị thiệt hại trầm trọng: 2 thiết vận xa M-8, 2 xe vận tải 5 tấn
chở đạn dược, và 2 xe bồn xăng bị phá hủy; 1 thiết vận xa M-8, 2 xe vận tải 5
tấn, 1 xe ủi đất, 2 xe vận tải 3/4 tấn và hai khẩu đại bác 105 ly bị hư hại
nặng nề.
Tối
ngày 23/10, Trung Tướng Larsen đổ xong một Lữ Đoàn Không Kỵ xuống bảo vệ
Pleiku.
Sáng
sớm ngày 24/10, các trực thăng
chở các khẩu đại bác đến hai vị trí tác xạ yểm trợ cho Chiến
Đoàn tiếp viện.
Chiều ngày 24/10, sau khi được Pleiku tái
tiếp tế, Chiến Đoàn tiếp cứu lại lọt vào ổ phục kích với hỏa lực vũ bão hơn
trận phục kích ngày hôm trước. Lần này Chiến Đoàn bị khựng lại không tiến lên
được. Một toán "đề lô" điều khiển pháo binh của Sư Đoàn Không Kỵ Mỹ
được phái tới trợ giúp đoàn xe bị vây hãm. Toán này được trực thăng tải thương
thả ngay xuống đầu đoàn chiến xa. Họ nhảy vào những chiến xa đầu cầu và từ
trong xe điều chỉnh các xạ thủ đại bác bắn trải thảm phía trước mặt đoàn chiến
xa. Và cứ như thế, nhờ làn mưa pháo tàn khốc đổ xuống phiá trước mặt, Chiến
Đoàn từ từ tiến tới được và triệt hạ dần các ổ phục kích.
Sáng ngày 25/10, một toán cảm tử dẫn đầu
bởi hai Trung Sĩ LLĐB Mỹ, dùng súng phun lửa xông ra trại triệt hạ được một ổ
súng đại liên nhẹ của địch quân.
Đến chập tối ngày 25/10, Chiến Đoàn tiếp cứu tiến vào trại Pleime,
chấm dứt sự vây hãm trại của địch quân.
Đến đây vai trò của Quân Đoàn 2 chấm dứt, nhưng vì Tướng
Westmoreland muốn Sư Đoàn Kỵ Binh Mỹ truy lùng và diệt đám tàn quân của 2 Trung
Đoàn 32 và 33 Bắc Việt đang tháo lui về biên giới Cam Bốt, nên Đại Tá Hiếu tiếp
tục liên lạc mật thiết với Ban Tham Mưu của Sư Đoàn Không Kỵ 1 Mỹ và với cá
nhân Tướng Kinnard, Tư Lệnh Sư Đoàn này với vai trò cố vấn vì tài ăn nói Anh
ngữ lưu loát. Vào giữa tháng 11/1965 xảy ra trận đánh đẫm máu tại Thung Lũng Ia
Drang. Sau đó, Quân Đoàn 2 kêu gọi đến Lữ Đoàn Dù do Trung Tá Ngô Quang Trưởng,
với sự trợ lực của một cố vấn Mỹ mang tên Thiếu Tá Norman Schwarzkopf, chỉ huy
nhảy xuống Đức Cơ chận đánh tàn quân Bắc Việt đang tìm đường rút về Cam Bốt.
Trong suốt thời gian giải vây trại Pleime, Đại Tá Hiếu thức trắng
đêm ngồi trực trong hầm trại Lực Lượng Đặc Biệt Mỹ tại Đức Cơ, xử dụng hệ thống
viễn thông bén nhậy của đơn vị Mỹ này, một lực lượng được trang bị cách biệt
đãi hơn các đơn vị khác, hơn là hệ thống viễn thông yếu kém của Bộ Tư Lệnh Quân
Đoàn 2, để liên lạc trực tiếp bằng Anh ngữ với các Chỉ Huy Trưởng Mỹ can dự vào
trận đánh này. Nhờ vậy mà cuộc hành quân phối hợp Việt Mỹ giữa các đơn vị thuộc
trại LLĐB Pleime, toán DELTA và Biệt Cách Dù 91, Không Quân Hoa Kỳ và Không
Quân Việt Nam, Chiến Đoàn Bộ Binh Thiết Giáp tiếp viện, Pháo Đội Yểm Trợ Chiến
Đoàn tiếp cứu của Sư Đoàn Không Kỵ Mỹ, Lữ Đoàn Không Kỵ bảo vệ Pleiku, tiến
hành một cách tốt đẹp.
Không mấy ai biết tới công lao này của Đại Tá Hiếu, dân chúng chỉ
biết qua báo chí là sau trận này Chuẩn Tướng Vĩnh Lộc được tuyên xưng là Người
Hùng Pleime và được thăng cấp Thiếu Tướng. Thiếu Tướng Vĩnh Lộc rất lấy làm
hãnh diện với chiến công hiển hách này nên đã đặt tên cho bản doanh Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 2 và
máy bay C-47 riêng của Tư Lệnh Quân Đoàn 2 là Pleime.
Trong 4 ngày Việt Cộng vây hãm trại Pleime, KLHK và KLVN thực hiện
tổng cộng 300 phi vụ oanh tạc nã xuống đầu Trung Đoàn 33 BV quanh trại. Các máy
bay vận tải C-123 của Không Quân và CV-2 Caribou của Lục Quân đã tiếp tế thả dù
xuống trại 333 ngàn cân anh (trong số đó 9 ngàn cân anh lọt ra ngoài hàng rào
giây kẽm gai) đạn dược, thuốc men, lương thực và nước uống.
Cộng quân thiệt hại rất nặng. Trung Đoàn 33
BV vây hãm trại chỉ sống sót được khoảng một đại đội. Trung Đoàn 32 BV phục
kích Chiến Đoàn tiếp cứu bị chết 40 phần trăm chiến binh, trong đó 2 Tiểu Đoàn
Trưởng chết và 1 bị thương, và bị mất 18 khẩu súng liên thanh chống phi cơ 12.7
ly cùng 11 súng cối.
Vì các chiến binh của Quân Đoàn 2 và của Sư Đoàn 1 Không Kỵ Mỹ bẻ
gãy chiến dịch Đông Xuân ngay từ giai đoạn đầu nên Tướng Võ Nguyên Giáp buộc phải từ bỏ ý đồ cắt đôi Miền Nam năm
1965-1966, thành thử Cộng Quân phải nếm mùi Đông tang thương mà
không được hưởng Xuân khải hoàn !
Nguyễn Văn Tín
Ngày 25 tháng 7 năm 1999
Cập nhật ngày 08.09.1999
SOURCE:
.
No comments:
Post a Comment